Chương trình Dân sự Chiến đấu (tiếng Anh: Civilian Irregular Defense Group program viết tắt là CIDG, đọc âm Việt là Xít-gi) là một chương trình quân sự do Cơ quan Tình báo Trung ương (CIA) phát triển trong Chiến tranh Việt Nam, nhằm tạo ra các đơn vị quân đội không chính quy ở Miền Nam Việt Nam từ các nhóm dân tộc thiểu số bản địa. Mục đích chính của việc thiết lập chương trình CIDG là chống lại ảnh hưởng ngày càng tăng của Việt Cộng (VC) ở Cao nguyên Trung phần bằng cách huấn luyện và trang bị vũ khí cho người bản địa để họ tự bảo vệ buôn làng.
Chương trình này nhanh chóng mở rộng sau khi Quân đội Mỹ chuyển quyền kiểm soát từ CIA sang MACV sau 2 năm kể từ khi thành lập và chuyển trọng tâm từ phòng thủ buôn làng sang các hoạt động thông thường hơn. Từ tháng 6 năm 1967 trở đi, các thành viên CIDG được đưa vào Quân đội Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH) hoặc các cơ quan chính phủ khác để tăng cường sự tham gia của người bản địa. Đến cuối năm 1970, các trại CIDG còn lại được chuyển thành trại Biệt động quân Việt Nam Cộng hòa. Những người dân tộc thiểu số bản địa thành lập CIDG đã nhận được những lợi ích đáng kể từ chính phủ Việt Nam Cộng hòa vì lòng trung thành của họ và đây là lần đầu tiên các nhóm thiểu số được trao tư cách đầy đủ là công dân miền Nam Việt Nam.
Mục đích
Có hai lý do thúc đẩy việc tổ chức lực lượng "Dân sự Chiến đấu" gồm:
Chính phủ Mỹ cho rằng nên vũ trang nhóm người Dân tộc thiểu số để chống lại sự xâm nhập của Cộng sản.
Người Thượng và các dân tộc thiểu số nói chung là đối tượng chính cho việc tuyên truyền của cộng sản, họ bất bình với Chính quyền Việt Nam Cộng hòa, lại dễ bị cộng sản lợi dụng, lôi kéo và tuyển mộ.
Đến tháng 1 năm 1965, trước khi Chính phủ Mỹ đem quân vào trực tiếp tham chiến trên chiến trường miền Nam Việt Nam, Bộ Tư lệnh Binh chủng Biệt kích Mỹ đã hoạch định "Kế hoạch chống xâm nhập", gửi đến Bộ chỉ huy Liên đoàn Biệt kích số 5 và các Ban chỉ huy Vùng, cùng các toán Biệt kích, trong đó xác định rõ: "Kế hoạch chống xâm nhập của Lực lượng Biệt kích là một chương trình hỗn hợp, phối hợp giữa Quân sự với Dân sự, nhằm thực hiện ba mục tiêu cơ bản sau:
Loại trừ Việt Cộng, thiết lập an ninh trên địa bàn được giao.
Bảo đảm sự kiểm soát của Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đối dân chúng trong vùng.
Huy động được dân chúng tham gia vào các chương trình của Chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
Những mục tiêu này chỉ có thể đạt được khi thực thi một trong ba nhiệm vụ sau:
Kiểm soát và quản lý chặt khu vực Biên giới.
Hoạt động ngăn chặn hiệu quả tại các tuyến đường Bắc Việt thường xâm nhập.
Tổ chức tốt các cuộc hành quân đánh phá các chiến khu, căn cứ của Việt Cộng.
Lịch sử hình thành
thumb|Một khóa huấn luyện của Lực lượng Dân sự Chiến đấu
Chương trình Dân sự Chiến đấu do CIA đề xướng vào đầu năm 1961 nhằm đối phó với sự bành trướng ảnh hưởng của Việt Cộng tại Cao nguyên Trung phần miền Nam Việt Nam. Khởi đầu ở làng Buôn Enao, một toán A thuộc Lực lượng Đặc biệt Mỹ (Biệt kích Mũ Nồi Xanh) di chuyển vào làng và thành lập Trung tâm Phát triển Khu vực. Tập trung vào việc Phòng vệ Địa phương và hành động dân sự, các nhóm Biệt kích quân đã góp phần lớn vào công tác huấn luyện và tổ chức nhân lực ban đầu. Dân làng được người Mỹ huấn luyện và vũ trang nhằm mục tiêu bảo vệ làng trong hai tuần, trong khi Lực lượng Xung kích Dân sự Chiến đấu được địa phương hóa tiếp nhận huấn luyện và trang bị vũ khí tốt hơn và đóng vai trò như một Lực lượng phản ứng nhanh đánh trả lại các cuộc tấn công của Việt Cộng. Đại đa số các trại Dân sự Chiến đấu lúc đầu do cư dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong cả nước phụ trách (đặc biệt là người Thượng), họ không thích cả hai miền Bắc và Nam Việt Nam và do đó đã nhanh chóng làm theo lời các cố vấn Mỹ. Chương trình tỏ ra thành công vang dội, cứ mỗi lần một ngôi làng được bình định thì nó lại đóng vai trò như một trại huấn luyện cho các ngôi làng tại địa phương khác.
Tháng 9 năm 1962, Bộ chỉ huy Lực lượng Đặc biệt (Biệt kích Mỹ tại Việt Nam) được thành lập, trực thuộc Bộ Tư lệnh Phái bộ viện trợ quân sự Mỹ tại Việt Nam (MACV). Tính đến tháng 10 năm 1962, có tất cả hai mươi bốn toán Biệt kích Mỹ hoạt động trên lãnh thổ miền Nam Việt Nam. Tháng 11 năm 1962, Lực lượng Biệt kích Mỹ tại Việt Nam được tổ chức gồm Bộ chỉ huy (C), ba ban chỉ huy (B) và 26 toán (A). Ngoài ra, còn có Bộ chỉ huy Trung tâm đặt tại Sài Gòn. Bộ chỉ huy (C) không đơn thuần chỉ huy, điều hành mà làm chức năng như là Bộ Tư lệnh Binh chủng của Lực lượng Đặc biệt ở chiến trường Việt Nam. Tháng 2 năm 1963, Bộ chỉ huy Lực lượng Đặc biệt Mỹ từ Sài Gòn rời đi Nha Trang vì Thành phố này nằm ở khoảng giữa từ Vĩ tuyến 17 đến Nam bộ, rất thuận tiện cho việc điều hành các toán Biệt kích nằm rải rác khắp miền Nam Việt Nam. Ngoài ra, Nha Trang lại nằm trên bờ biển, thuận lợi cho việc tiếp nhận vũ khí, trang thiết bị viện trợ đến từ Okinawa; lại có sân bay và hệ thống đường bộ rất tiện cho việc vận chuyển tiếp tế hậu cần.
Từ tháng 12 năm 1962 đến tháng 2 năm 1963, Bộ chỉ huy Lực lượng Biệt kích Mỹ đảm đương hoàn toàn việc chỉ huy mọi hoạt động của các toán Biệt kích tại Việt Nam. Vào thời điểm đó các toán Biệt kích Mỹ đã thiết lập những trại Dân sự Chiến đấu trên khắp bốn Vùng Chiến thuật của Quân lực Việt Nam Cộng hòa và trực tiếp chỉ huy các toán Biệt kích. Các toán Biệt kích được lâm thời tổ chức trên cơ sở tạm thời điều động quân của Liên đoàn 1 (từ Okinawa); hai Liên đoàn 5, 7 Biệt kích (từ Fort Bragg, North Carolina). Đến tháng 12 năm 1963, các toán Biệt kích Mỹ phối hợp với Lực lượng Biệt kích của Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã được huấn luyện và trang bị, gồm 18.000 quân thuộc Lực lượng Xung kích; 43.000 quân thuộc lực lượng Phòng vệ dân sự.
Phát triển
thumb|
Phù hiệu Bộ chỉ huy Viện trợ Quân sự Mỹ tại Việt Nam (MACV)
Vào năm 1963, Quân đội Mỹ nhận thấy rằng chương trình này là một thành công lớn, nhưng cũng có các đơn vị Dân sự Chiến đấu và Biệt kích quân đã không được sử dụng đúng cách, nhất là từ sau khi mở cuộc hành quân Switchback, quyền kiểm soát của chương trình Dân sự Chiến đấu đã được chuyển đổi từ CIA sang Bộ chỉ huy Viện trợ Quân sự Mỹ tại Việt Nam (MACV). Lực lượng Dân sự Chiến đấu được mở rộng nhanh chóng, gần như toàn bộ Liên đoàn Biệt kích số 5 của Lực lượng Đặc biệt Quân đội Mỹ đã tiến vào Việt Nam, các đơn vị Dân sự Chiến đấu buộc phải ngừng tập trung vào việc phòng thủ thôn xóm và thay vào đó được dự phần trong các hoạt động thông thường hơn mà nổi bật nhất là giám sát biên giới. Cuối năm 1964, Lực lượng Dân sự Chiến đấu không còn là vấn đề phát triển số lượng nữa. Vì mục đích và nhiệm vụ của nó cũng thay đổi. Ngoài chức năng phòng vệ tại chỗ (giữ địa bàn nông thôn, miền núi). Các trại Dân sự Chiến đấu đều được sử dụng làm bàn đạp cho các cuộc hành quân tấn công vào căn cứ Việt Cộng. Với sự điều chỉnh chức năng trên sẽ làm tăng phần hiệu quả cho việc kiểm soát khu vực biên giới, thông qua việc Lực lượng Biệt kích Mỹ triển khai xây thêm một số đồn, trạm biên phòng.
Trong cuộc hành quân Switchback (từ tháng 11 năm 1962 đến tháng 7 năm 1963), các hoạt động tấn công của Lực lượng Xung kích Dân sự Chiến đấu như: phục kích, tuần tiễu, thám sát tại địa bàn phụ trách của mỗi trại. Ngoài ra, những cuộc hành quân phối hợp với các đơn vị của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, bao gồm Lực lượng Dân sự Chiến đấu của các trại. Chỉ tính riêng tháng 6 năm 1963, đã có bốn Đại đội Xung kích Dân sự Chiến đấu được tuyển từ các trại Đakto, Plei Mrong và Polei Kleng phối hợp hành quân lùng sục Quân đội Cộng sản. Lực lượng Vũ trang Cộng sản phản ứng lại bằng cách pháo kích, quấy rối các Đồn trại Biên phòng. Trong lúc Lực lượng Biệt kích Mỹ mở cuộc hành quân Switchback, thì các hoạt động của Cộng sản ngày càng gia tăng, hầu hết các trại Biệt kích đều bị tập kích hoặc uy hiếp, quấy rối. Ngày 3 tháng 1 năm 1963, Lực lượng Đặc công cùng hai Đại đội Quân Giải phóng tấn công và tràn ngập trại Plei Mrong. Sau vụ tấn công của quân Bắc Việt, vấn đề phòng thủ của các đồn trại biên phòng được xem xét lại, Bộ Tư lệnh Phái bộ Viện trợ Quân sự Mỹ tại Việt Nam đã ra lệnh cho các toán Biệt kích thiết lập thêm tuyến phòng thủ thứ hai, cho tất cả các đồn trạm của Lực lượng Biệt kích Mỹ. Đồng thời, tăng cường thêm hai Tiểu đoàn Công binh Hải quân (Seabee) hỗ trợ trong việc xây cất các công trình quân sự.
Việc sử dụng Lực lượng Dân sự Chiến đấu trong các hoạt động tuần tiễu, lục soát những địa bàn ngoài phạm vi trách nhiệm của đồn trại, thường cần có những căn cứ tiền phương và lực lượng ứng cứu. Sau đó, Lực lượng Xung kích với 20.000 quân được thành lập vào tháng 11 năm 1963. Đến tháng 7 năm 1964, được biên chế, tổ chức hoàn chỉnh, mỗi Đại đội Dân sự Chiến đấu có quân số 150 người, bao gồm Bộ chỉ huy (10 người), ba Trung đội thực binh (35 người), Trung đội hỏa lực (35 người). Mỗi trại được biên chế đủ bốn Đại đội. Hai Đại đội hoạt động bên ngoài trại, tại các căn cứ tiền phương; thường tung các Trung đội, cùng các toán Trinh sát (5 người) hoạt động trên địa bàn được phân công. Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 1965, Cộng sản cũng thay đổi chiến thuật từ chiến tranh du kích sang chiến tranh nhân dân. Trước thực tế trên, mọi hoạt động của Lực lượng Biệt kích Mỹ được phân làm ba loại. Một là thiết lập thêm trại Dân sự Chiến đấu nhằm ngăn chặn mức độ chuyển quân, tiếp tế của Bắc Việt. Đồng thời bỏ một số trại do áp lực quá nặng của cộng sản. Mặt khác tổ chức phòng thủ tốt các trại dọc theo biên giới như: A Sầu, Làng Vây, Cồn Thiên, Lộc Ninh, Bù Đốp... Hai là, thành lập các sở chỉ huy hành quân ngoại biên như: Sở chỉ huy hành quân Delta ở Vùng Chiến thuật I; Sở chỉ huy hành quân Black Jack 33 ở Vùng Chiến thuật III. Cả hai sở chỉ huy hành quân trên đều nằm trong "Kế hoạch hành quân Sigma". Đây là cuộc hành quân đầu tiên hối hợp giữa đơn vị Xung kích Cơ động và đơn vị Xung kích Tiếp ứng.
Trong cuộc hành quân Black Jack 41, có hai Đại đội Xung kích Cơ động nhảy dù xuống tấn công căn cứ của Việt Cộng tại vùng núi Thất Sơn, thuộc Vùng Chiến thuật IV. Cuộc hành quân Attleboro do một đơn vị xung kích đánh phá căn cứ Suối Đá (Tây Ninh) của Việt Cộng tại Vùng Chiến thuật III, loại khỏi vòng chiến một Tiểu đoàn chủ lực quân Giải phóng. Cuối cùng là những cuộc hành quân phối hợp giữa các đơn vị Dân sự Chiến đấu với các đơn vị của Liên quân Mỹ như cuộc hành quân Nathan Hale, phối hợp giữa Lực lượng Dân sự Chiến đấu với Sư đoàn 1 Kỵ binh bay và Sư đoàn Nhảy dù 101 của Mỹ. Cuộc hành quân Henry Clay và Thayer; hay cuộc hành quân Rio Blanco ở Vùng Chiến thuật I, bao gồm các đơn vị Dân sự Chiến đấu, Địa phương quân và Biệt động quân Việt Nam Cộng hòa, với Thủy quân lục chiến Hàn Quốc và Thủy quân lục chiến Mỹ. Cuộc hành quân Sam Houston ở Vùng Chiến thuật II, có sự hối hợp giữa Sư đoàn Bộ binh số 4 của Mỹ với Lực lượng Dân sự Chiến đấu.
Tàn cuộc
Khi người Mỹ bắt đầu rút quân về nước thông qua chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh từ năm 1968 đến 1969, Lực lượng Dân sự Chiến đấu hầu hết đều được chuyển giao cho Lực lượng Biệt động quân Việt Nam Cộng hòa vào năm 1970, hình thành các đồn trại Biệt động quân Biên phòng và vẫn tiếp tục tham chiến trong biên chế của Quân lực Việt Nam Cộng hòa cho đến khi chính thể Việt Nam Cộng hòa sụp đổ trong sự kiện 30 tháng 4 năm 1975.
👁️
2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Chương trình **Dân sự Chiến đấu** (tiếng Anh: _Civilian Irregular Defense Group program_ viết tắt là **CIDG**, đọc âm Việt là _Xít-gi_) là một chương trình quân sự do Cơ quan Tình báo Trung ương
**Các lực lượng Dân chủ Syria** (, , ) là một liên minh đa sắc tộc và đa tôn giáo của người Kurd chủ yếu, cũng như các lực lượng dân quân Ả Rập và
**Lực lượng biệt kích Hoa Kỳ và đồng minh trong Chiến tranh Việt Nam** nói về những đơn vị quân sự đặc biệt trong Chiến tranh Việt Nam hoạt động dưới sự điều hành trực
**Lực lượng đặc biệt Khmer** (tiếng Anh: _Khmer Special Forces_ (KSF) hoặc _Forces Speciales Khmères_ (FSK) trong tiếng Pháp) là đơn vị biệt kích tinh nhuệ của Lực lượng Vũ trang Quốc gia Khmer (FANK)
Chiến thuật **trực thăng vận trong Chiến tranh Việt Nam** thường được biết đến với những tên gọi khác là **Chiến thuật Đại bàng bay** hay **Hổ bay, Chim ưng, Kẻ bình định, Lực lượng
nhỏ|phải|Lực lượng Checchen nhỏ|phải|Chỉ huy [[Magomed Daudov của Lực lượng Chechen, nay ông đã trở thành một chính trị gia nắm quyền thứ hai tại Chechnya]] **Lực lượng Chechen** hay **đặc nhiệm Chechen** hay **Lực
**Lực lượng Chi viện chiến lược Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc** () là quân chủng thuộc Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc được thành lập ngày 31/12/2015. ## Lịch sử Lực lượng
**Lực lượng Dân quân Lãnh thổ Cuba** (), là lực lượng dân quân bán quân sự của Cuba bao gồm các tình nguyện viên dân sự. MTT được thành lập vào ngày 1 tháng 5
**Lực lượng không gian** là một quân chủng thuộc lực lượng vũ trang của một quốc gia, có nhiệm vụ tiến hành các hoạt động quân sự ngoài không gian và chiến tranh không gian.
**Lực lượng Phòng vệ Israel** ( - IDF; ) là lực lượng quân sự của Israel, gồm Lục quân, Không quân và Hải quân. Đây là cánh vũ trang của các lực lượng an ninh
**Lực lượng Vũ trang Iraq** hay **Quân đội Iraq** () là lực lượng quân sự của Iraq. Quân đội Iraq bao gồm: Lục quân Iraq, Không quân Iraq và Hải quân Iraq. Tổng thống là
**Lực lượng Phòng vệ Mặt đất Nhật Bản** (tiếng Anh: _Japan Ground Self-Defense Force_, , Hán-Việt: _Lục thượng tự vệ đội_), thường được gọi tắt là **JGSDF** (, Hán-Việt: _Lục tự_), là lực lượng lục
thumb|Một hạm đội đa quốc gia gồm 5 nước trong [[chiến dịch Tự do bền vững trên biển Oman. Năm cột giảm dần, từ trên cùng bên trái xuống dưới cùng bên phải: MM _Maestrale_
**Chiến dịch Plei Me** là một chiến dịch trong Chiến tranh Việt Nam. Chiến dịch do Mặt trận Tây Nguyên thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam phát động vào tứ giác Plei Me-Bàu Cạn-Đức
**Tập trung lực lượng** là hoạt động của quân đội tiến hành tập trung các đơn vị quân đội thành một đơn vị lớn hơn tại một địa điểm để chiến đấu. Việc tập trung
nhỏ|phải|Lực lượng vũ trang Gambia trong một đợt diễn tập năm 2019 **Lực lượng vũ trang Gambia** (_Gambia Armed Forces_-**GAF**) được thành lập vào năm 1985 theo định ước của Liên minh Senegambia, một liên
**Lực lượng đặc biệt** (Tiếng Anh: _Army of the Republic of Vietnam Special Forces_, **ARVNSF**) - viết tắt: **LLDB** - là một đơn vị quân sự tinh nhuệ của Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Hoa Kỳ có 8 **lực lượng đồng phục liên bang** (tiếng Anh: _Uniformed services of the United States_) mà trong đó các viên chức ủy nhiệm (dân sự) hay sĩ quan (quân đội) được định
nhỏ|phải|[[Nga huy động quân năm 2022|Lực lượng huy động của Nga vào năm 2022 với trang bị súng trường AK thô sơ]] **Lực lượng dự bị động viên** (_Military reserve force_) đôi khi gọi là
**Phân tán lực lượng** là hoạt động dàn trải binh lính, xe quân sự và các phương tiện chiến tranh khác trong một đội quân. Hoạt động này được sử dụng để giảm thiểu mức
nhỏ|phải|Phù hiệu của lực lượng **Lực lượng Phòng thủ Lãnh thổ** (tiếng Ukraina: _Війська територіальної оборони_, Latinh hóa: _Viiska terytorialnoi oborony_, viết tắt **VTO**) là lực lượng dự bị động viên quân sự - địa
**Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam** (tiếng Anh: _Alliance of National Democratic and Peaceful Forces of Vietnam_, **ANDPFVN**) là một tổ chức được thành lập sau sự
Sau khi kết thúc Thế chiến thứ hai, các lực lượng quân sự của Đế quốc Nhật Bản, bao gồm Lục quân và Hải quân, bị chính quyền chiếm đóng quân sự Hoa Kỳ xóa
Đây là một **danh sách các lực lượng không quân** trên thế giới theo bảng chữ cái abc, các đơn vị này được xác định với tên gọi hiện nay và tên gọi trước đó,
**Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ** (_United States Marine Corps_) là một quân chủng của Quân đội Hoa Kỳ có trách nhiệm phòng vệ vũ trang và tiến công đổ bộ từ phía biển, sử
**Lực lượng vũ trang Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết**(tiếng Nga: _Вооружённые Силы Союза Советских Социалистических Республик_) là lực lượng vũ trang của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết
**Lực lượng Vũ trang Cách mạng Cuba** ( – FAR) bao gồm Lục quân Cách mạng, Phòng không Không quân Cách mạng, Hải quân Cách mạng và các cơ quan bán quân sự khác trong
**Quân đội Pakistan** (tiếng Urdu: **پاک عسکریہ**) là lực lượng quốc phòng, bảo vệ đất nước của Pakistan. Quân đội Pakistan gồm: Lục quân Pakistan, Hải quân Pakistan, Không quân Pakistan, Lực lượng bán vũ
**Quân đội Pháp** có lịch sử lâu đời, ảnh hưởng rộng lớn đến lịch sử thế giới. Quân đội Pháp gồm lục quân, hải quân, không quân và lực lượng hiến binh quốc gia. Quân
**Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản**, tên chính thức trong tiếng Nhật là , là lực lượng vũ trang của Nhật Bản, được thành lập căn cứ Luật Lực lượng phòng vệ năm 1954. Lực
**Quốc quân Đại Hàn Dân Quốc** (), thường được gọi với các tên thông dụng hơn là **Lực lượng Vũ trang Hàn Quốc** hay **Quân đội Hàn Quốc** (), là lực lượng vũ trang và
**Lực lượng Phòng vệ Phần Lan** là lực lượng chiến đấu của nước Cộng hòa Phần Lan với trách nhiệm chiến đấu, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an
nhỏ|240x240px|[[Lục quân Đại Hàn Dân Quốc duyệt binh]] **Lục quân** (còn gọi là **lực lượng mặt đất** hay **lực lượng trên bộ)** là lực lượng quân sự chiến đấu chủ yếu chiến đấu trên bộ.
thumb|[[Xe tăng chủ lực T-90 trong lễ duyệt binh 9-5 (28)]] **Lực lượng Vũ trang Liên bang Nga** (), thường được gọi là **Lực lượng Vũ trang Nga** hay **Quân đội Nga**, là lực lượng
**Biệt đội Tác chiến Lực lượng Đặc biệt số 1 - Delta** (1st Special Forces Operational Detachment-Delta - 1st SFOD-D) là một trong những _Đơn vị Sứ mệnh Đặc biệt_ (Special Mission Units) và là
**Lực lượng Không quân Cường kích** là một binh chủng thuộc Quân chủng Phòng không-Không quân - Quân đội nhân dân Việt Nam, có chức năng sử dụng các máy bay cường kích nhằm thực
**Quân đội Hoàng gia Campuchia** (; , **RCAF**) là lực lượng quân sự quốc gia của Campuchia, gồm có Lục quân, Hải quân, Không quân và Lực lượng Hiến binh. Về danh nghĩa, Quốc vương
**Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam** là lực lượng vũ trang thống nhất của Việt Nam có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu, phục vụ chiến đấu, bảo vệ độc lập,
phải|Các mặt trận (B) và quân khu (MR) của Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam (năm 1970) Trong chiến tranh Việt Nam, mặt trận (địa bàn quân sự) là hình thức bố trí binh
thumb|Ảnh chụp Lực lượng Hải thuyền đang thả neo năm 1962. **Lực lượng Hải thuyền** () tên gọi chính thức là **Lực lượng Duyên hải** là đơn vị an ninh hải quân của Việt Nam
**Xe chiến đấu bộ binh** (tiếng Nga: Боевая машина пехоты - BMP; tiếng Anh: _Infantry fighting vehicle_ - IFV), cũng được biết đến với tên gọi **Xe chiến đấu bộ binh cơ giới**, là một
**Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân** là danh hiệu vinh dự cao nhất của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước đây và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
**Bộ các Lực lượng Vũ trang Cách mạng Cuba** (), một số tài liệu tiếng Việt ghi là **Bộ Quốc phòng Cuba**, là cơ quan trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng Cuba với nhiệm vụ
**Ngày Lực lượng Vũ trang Cuba** còn gọi là **Ngày Lực lượng Vũ trang Cách mạng** (), là ngày lễ quốc gia ở Cuba được tổ chức vào ngày 2 tháng 12 hàng năm để
**Dự án DELTA** là Dự án Trinh sát đầu tiên, thuộc đơn vị trinh sát đặc biệt (SR) được đặt tên bằng một chữ cái Hy Lạp. Dự án Trinh sát này do Bộ chỉ
Henry David Thoreau **Chống đối chính phủ dân sự** (**Bất Tuân Dân Sự**) là một bài luận được viết bởi nhà triết học theo chủ nghĩa tiên nghiệm người Mỹ Henry David Thoreau được xuất
phải|nhỏ|Một chiếc trực thăng chiến đấu [[Mil Mi-24 của Nga.]] nhỏ|Chiếc [[Eurocopter Tiger|Tiger UHT hiện đại của Quân đội Đức]] Một chiếc **trực thăng chiến đấu**, là một trực thăng quân sự được trang bị
**Chiến tranh theo giai đoạn** là khái niệm mô tả một cuộc chiến tranh đang diễn ra được hoạch định qua từng giai đoạn chiến đấu. Điều này xuất phát từ khả năng hiện tại
**Lực lượng Hiến binh Đặc nhiệm Quốc gia** (tiếng Pháp: _Groupe d'Intervention de la Gendarmerie Nationale), _thường được viết tắt là GIGN. Là một đơn vị đặc nhiệm thuộc Lực lượng Vũ trang Pháp cùng
**Lực lượng Vũ trang Cộng hòa Hồi giáo Iran** (tiếng Ba tư: نيروهای مسلح جمهوری اسلامی ايران) gồm Quân đội Cộng hòa Hồi giáo Iran (tiếng Ba tư: ارتش جمهوری اسلامی ایران), Vệ binh Cách