✨Lockheed P-80 Shooting Star

Lockheed P-80 Shooting Star

Chiếc Lockheed P-80 Shooting Star là kiểu máy bay tiêm kích phản lực đầu tiên đưa vào hoạt động trong Không lực Lục quân Hoa Kỳ và, dưới tên gọi F-80, tham gia hoạt động chiến đấu rộng rãi tại Triều Tiên với Không quân Hoa Kỳ. Là một trong những máy bay phản lực chiến đấu đầu tiên thành công trên thế giới, nó đánh dấu sự khởi đầu của "thời đại phản lực" trong Không quân Mỹ và không quân các nước khác. Một trong các vai trò tạo nên danh tiếng là trong việc huấn luyện một thế hệ các phi công mới, đặc biệt là trong kiểu máy bay huấn luyện T-33 Shooting Star được phát triển dựa trên nó.

Thiết kế và phát triển

Khái niệm về chiếc XP-80 được bắt đầu từ năm 1943 với một thiết kế được chế tạo chung quanh kích thước có từ bản thiết kế của động cơ turbo phản lực de Havilland H1 B Anh Quốc, một cỗ máy mà nhóm thiết kế chưa từng được chạm tay đến. Nhóm thiết kế Lockheed, gồm 28 kỹ sư hàng không dưới sự lãnh đạo của nhà thiết kế huyền thoại Clarence L. "Kelly" Johnson, là một phong cách làm việc theo nhóm độc đáo của Lockheed dưới tên gọi Skunk Works, trong thập niên kế tiếp sẽ sản xuất ra một loạt các máy bay có tính năng cao như F-104 Starfighter, Lockheed U2, SR-71 Blackbird, F-117 Nighthawk và F-22 Raptor.

Chiếc XP-80 có cấu trúc thông dụng, khung máy bay toàn kim loại với cánh thon đặt thấp và bộ càng đáp ba bánh. Chiếc P-80 là một trong những máy bay tiêm kích phản lực hoạt động có động cơ đặt trong thân, lần đầu tiên được thấy trên chiếc P-59 Airacomet, một kiểu tiền phong trong thời kỳ đầu (các máy bay phản lực đầu tiên khác có động cơ đặt trên những trụ bên ngoài để bảo trì dễ dàng); đặc tính thiết kế này được hầu hết các máy bay tiêm kích thế hệ tiếp nối sử dụng. phải|Chiếc nguyên mẫu ban đầu XP-80 Lulu-Belle. Chiếc nguyên mẫu đầu tiên (số hiệu 44-83020), có tên lóng là Lulu-Belle (và còn được gọi là "Green Hornet" do nước sơn màu xanh lá), bay lần đầu tiên ngày 8 tháng 1 năm 1944 do phi công thử nghiệm của Lockheed Tony LeVier điều khiển, chỉ trong vòng 143 ngày sau khi việc thiết kế được bắt đầu, và hoàn tất sớm hơn trước thời hạn 37 ngày. Lulu-Belle được trang bị động cơ thay thế kiểu Halford H1 (sau này là "Goblin") lấy từ kiểu máy bay nguyên mẫu de Havilland Vampire và được chở tới Hoa Kỳ sau khi động cơ nguyên thủy bị hỏng do tai nạn. Sau chuyến bay đầu tiên Clarence Johnson đã nói: "Đây là một cuộc trình diễn vĩ đại, máy bay của chúng ta là một thành công - một thành công hoàn toàn vì nó vượt qua được những những ưu thế tạm thời của người Đức có được sau nhiều năm phát triển sơ thảo những máy bay phản lực.".

trái|Chiếc nguyên mẫu XP-80A Gray Ghost đang bay. Chiếc nguyên mẫu thứ hai, ký hiệu XP-80A, được thiết kế cho kiểu động cơ lớn hơn GE I-40 (sau này đặt tên là J-33), với hai máy bay (số hiệu 44-83021 và 44-83022) được chế tạo. 44-83021 được đặt tên lóng là "Gray Ghost" do màu sơn xám ngọc trai của nó, trong khi chiếc XP-80A thứ hai, được giữ lại không sơn nhằm so sánh các tính năng khi bay, được đặt tên là "Silver Ghost". Chuyến bay thử nghiệm đầu tiên của nó không gây được ấn tượng, nhưng đa số các vấn đề trong thiết kế được nhanh chóng tiếp cận và sử đổi trong chương trình thử nghiệm. Các quan điểm ban đầu về chiếc P-80A trang bị động cơ I-40 không được tích cực, với nhận xét của phi công thử nghiệm kỹ thuật chính của Lockheed Milo Burcham rằng chiếc máy bay mà ông ta rất ưa chuộng (gắn động cơ Halford) đã trở thành một "con chó". Những chiếc XP-80A trở thành khung thử nghiệm chính yếu cho các kiểu động cơ lớn hơn và các kiểu thiết kế ống hút gió động cơ, và do đó nó to và nặng hơn 25% so với chiếc XP-80.

Chương trình thử nghiệm chiếc P-80 tỏ ra rất nguy hiểm. Burcham thiệt mạng ngày 20 tháng 10 năm 1944 trong khi bay chiếc YP-80A thứ ba được sản xuất số hiệu 44-83025. Chiếc "Gray Ghost" bị mật trong một chuyến bay thử nghiệm ngày 20 tháng 3 năm 1945, nhưng phi công Tony LeVier nhảy dù thoát được. Mới được đề bạt lên thay thế Burcham ở vị trí phi công thử nghiệm kỹ thuật chính, LeVier thoát ra khi một trong các cánh của động cơ turbin bị gảy, gây hỏng cấu trúc cánh đuôi. LeVier chạm đất mạnh và bị chấn thương lưng, nhưng quay lại chương trình thử nghiệm sau sáu tháng phục hồi. Đáng kể là Thiếu tá Richard Bong, một phi công "Ách" tại Mặt trận Thái Bình Dương, cũng bị thiệt mạng trong khi bay nghiệm thu một chiếc P-80 sản xuất hằng loạt tại Hoa Kỳ ngày 6 tháng 8 năm 1945. Cả hai tai nạn của Burcham và Bong đều là kết quả của hỏng hóc bơm nhiên liệu chính. Cái chết của Burcham là hậu quả của thiếu sót không báo trước cho ông về việc mới gắn một hệ thống bơm nhiên liệu dự phòng khi khẩn cấp; nhưng điều tra về tai nạn của Bong cho thấy rằng ông ta rõ ràng đã quên bật công tắc bơm khẩn cấp vốn đã có thể ngăn ngừa được tai nạn. Ông ta đã cố thoát ra khi máy bay lộn ngược vòng nhưng vì quá gần mặt đất nên dù đã không thể bật ra được.

Lịch sử hoạt động

phải|Những chiếc P-80B tại căn cứ không quân Langley. Chiếc Shooting Star bắt đầu được đưa vào hoạt động từ cuối năm 1944 với 12 chiếc tiền sản xuất YP-80A (một chiếc YP-80A thứ 13 được cải tiến trở thành chiếc máy bay F-14 trinh sát hình ảnh duy nhất và bị mất trong một tai nạn vào tháng 12), một chiếc bị phá hủy trong một tai nạn đã giết chết Burcham. Bốn chiếc được gửi sang Châu Âu để được thử nghiệm hoạt động thực tế (hai chiếc đến Anh Quốc và hai chiếc đến Phhi đoàn Tiêm kích 1 tại Lesina, Ý) nhưng khi Thiếu tá phi công thử nghiệm Frederic Borsodi bị giết trong một vụ rơi chiếc máy bay trình diễn YP-80A số hiệu 44-83026 tại căn cứ Không quân Hoàng gia Burtonwood do cháy động cơ vào ngày 28 tháng 1 năm 1945, những chiếc YP-80A phải tạm thời ngừng bay. Do những sự chậm trễ, chiếc Shooting Star đã không tham gia chiến đấu trong Thế Chiến II.

Đơn đặt hàng sản xuất ban đầu là 344 chiếc P-80A sau khi được Không lực Mỹ chấp nhận vào tháng 2 năm 1945. Có 83 chiếc đã được giao hàng cho đến cuối tháng 7 năm 1945 và 45 chiếc được bố trí đến Phi đoàn Tiêm kích 412 (sau này đổi tên thành Phi đoàn Tiêm kích 1) tại căn cứ không quân Edwards. Sau chiến tranh việc sản xuất vẫn tiếp tục, mặc dù kế hoạch 5.000 chiếc máy bay thời chiến nhanh chóng giảm còn 2.000 chiếc trị giá dưới 100.000 Đô la mỗi chiếc. Có tổng cộng 1.714 máy bay F-80A, F-80B, F-80CRF-80 một chỗ ngồi được chế tạo cho đến khi việc sản xuất chấm dứt vào năm 1950, trong đó có 927 chiếc F-80C (bao gồm 129 chiếc F-80A hoạt động được nâng cấp lên tiêu chuẩn F-80C-11-LO). Tuy nhiên, phiên bản hai chỗ ngồi TF-80C, bay lần đầu tiên ngày 22 tháng 3 năm 1948, trở thành căn bản cho chiếc máy bay huấn luyện T-33, mà 6.557 chiếc đã được sản xuất.

Chiếc nguyên mẫu P-80B, được cải tiến thành một máy bay đua và đặt tên là XP-80R, dưới sự điều khiển của Đại tá Albert Boyd đã lập một kỷ lục thế giới về tốc độ 1004,2 km/h (623,73 mph) vào ngày 19 tháng 6 năm 1947. Chiếc P-80C bắt đầu được sản xuất vào năm 1948; và vào ngày 11 tháng 6, trở thành một thành phần của Không quân Hoa Kỳ mới thành lập, chiếc P-80C chính thức đổi tên thành F-80C.

Bộ chỉ huy Không quân Chiến lược Không quân Hoa Kỳ đã đưa những chiếc F-80 Shooting Star vào sử dụng từ năm 1946 đến năm 1948 tại Không đoàn 1 và Không đoàn 56. Những chiếc P-80 đầu tiên phục vụ tại châu Âu gia nhập Không đoàn 55 (sau được đổi tên thành Không đoàn 31) tại Würzburg Giebelstadt, Đức, vào năm 1946, và ở tại đó mười tám tháng. Khi Liên Xô phong tỏa Berlin, một phi đội của Không đoàn 56 do Đại tá David C. Schilling chỉ huy đã bay vượt Đại Tây Dương từ Tây sang Đông vào tháng 7 và bay đến Đức trong 45 ngày trong Chiến dịch Fox Able. Được thay thế bởi Không đoàn 36 vừa mới trang bị F-80 tại Căn cứ Không quân Furstenfeldbruck, Không đoàn 56 thực hiện Chiến dịch Fox Able II vào tháng 5 năm 1949. Cùng năm đó F-80 được trang bị cho Không đoàn 51 đặt căn cứ tại Nhật Bản.

Các không đoàn 4 (Căn cứ Không quân Langley, Virginia); 81 (Căn cứ Không quân Kirtland, New Mexico), và 57 (Căn cứ Không quân Elmendorf, Alaska) được trang bị F-80 trong năm 1948, cũng như các phi đội tiêm kích đánh chặn thuộc Bộ chỉ huy Không quân Phòng không. Đơn vị Không lực Vệ binh Quốc gia đầu tiên bay chiếc P-80 là Phi đội Tiêm kích 196 của lực lượng Vệ binh Quốc gia California vào tháng 6 năm 1947.

Chiến tranh Triều Tiên

Shooting Star tham gia hoạt động chiến sự lần đầu tiên trong Chiến tranh Triều Tiên, chủ yếu là phiên bản F-80C mạnh mẽ hơn nhưng cũng có những chiếc máy bay RF-80 trinh sát hình ảnh. Trận không chiến đầu tiên giữa hai máy bay phản lực xảy ra vào ngày 8 tháng 11 năm 1950 trong đó một chiếc F-80 đã bắn rơi một chiếc MiG-15 (còn đang tranh luận liệu có phải là một chiến công phản lực chống phản lực hay không). Cho dù có được thắng lợi ban đầu, những chiếc F-80 cánh thẳng có tính năng bay yếu kém hơn những chiếc MiG và không lâu sau được thay thế bởi những chiếc F-86 Sabre cánh xuôi trong vai trò tiêm kích chiếm ưu thế trên không. Khi có đủ số lượng máy bay Sabre hoạt động, những chiếc Shooting Star được giao các phi vụ tấn công mặt đất, cũng như các nhiệm vụ huấn luyện bay nâng cao và phòng không tại Nhật Bản. Khi cuộc xung đột kết thúc, những chiếc F-80 còn bay tại Triều Tiên chỉ có phiên bản trinh sát hình ảnh.

Các đơn vị sử dụng F-80 và RF-80A trong chiến đấu tại Triều Tiên bao gồm:

  • Phi đoàn Tiêm kích Ném bom 8 (các phi đội tiêm kích-ném bom 35, 36, và 80), đặt căn cứ tại Suwon, là đơn vị sử dụng F-80 trong thời gian lâu nhất tại Triều Tiên. Họ bắt đầu các phi vụ từ Nhật Bản vào tháng 6 năm 1950 và tiếp tục bay chiếc Shooting Star đến tận tháng 5 năm 1953, khi họ chuyển sang loại máy bay F-86 Sabre.
  • Phi đoàn Tiêm kích Ném bom 49 (các phi đội tiêm kích-ném bom 7, 8 và 9) được bố trí từ Nhật Bản sang Taegu, Triều Tiên, vào tháng 9 năm 1950 và tiếp tục thực hiện các phi vụ tiêm kích-ném bom bằng máy bay F-80C cho đến mùa Xuân năm 1952, khi họ chuyển sang loại máy bay F-84 Thunderjet.
  • Phi đoàn Tiêm kích Đánh chặn 51 (các phi đội tiêm kích đánh chặn 16 và 25) hoạt động những chiếc F-80C từ Kimpo và Nhật Bản từ tháng 9 năm 1950 đến tháng 11 năm 1951 khi họ chuyển sang loại máy bay F-86.
  • Phi đoàn Tiêm kích Đánh chặn 35 và hai phi đội tiêm kích đánh chặn 39 và 40 đến Pohang, Triều Tiên, vào tháng 7 năm 1950, nhưng chuyển sang loại máy bay P-51 Mustang trước cuối năm đó.
  • Phi đội Trinh sát Hình ảnh 8, sau này được đổi tên thành Phi đội Trinh sát Hình ảnh 15, phục vụ từ ngày 27 tháng 6 năm 1950 tại Itazuke, Nhật Bản; và tại Tague (K-2) và Kempo (K-14), Triều Tiên, cho đến khi chấm dứt xung đột. Phi đội này cũng sử dụng một số máy bay cải biến RF-80C và RF-86.

Trong số 277 máy bay F-80 bị thiệt hại trong hoạt động (chiếm khoảng 30% số máy bay có được), có 113 chiếc bị tiêu diệt bởi hỏa lực mặt đất và 14 chiếc bị máy bay địch bắn rơi.

Đặc tính chung

  • Đội bay: 01 người
  • Chiều dài: 10,49 m (34 ft 5 in)
  • Sải cánh: 11,81 m (38 ft 9 in)
  • Chiều cao: 3,43m (11 ft 3 in)
  • Diện tích bề mặt cánh: 22,07 m² (237,6 ft²)
  • Diện tích cản: 0,30 m² (3,2 ft²)
  • Hệ số nâng/lực cản: 0,0134
  • Tỉ lệ dài/rộng cánh: 6,37
  • Lực nâng của cánh: 260 kg/m² (53 lb/ft²)
  • Trọng lượng không tải: 3.819 kg (8.420 lb)
  • Trọng lượng có tải: 5.738 kg (12.650 lb)
  • Trọng lượng cất cánh tối đa: 7.646 kg (16.856 lb)
  • Động cơ: 1 x động cơ Allison J33-A-35 turbo phản lực nén ly tâm, lực đẩy 5.400 lbf (24,0 kN)

Đặc tính bay

  • Tốc độ lớn nhất: 965 km/h (600 mph)
  • Tốc độ bay đường trường: 660 km/h (410 mph)
  • Tầm bay tối đa: 1.930 km (1.200 mi)
  • Trần bay: 14.000 m (46.000 ft)
  • Tốc độ lên cao: 23,3 m/s (4.580 ft/min); lên cao 6.100 m (20.000 ft) trong 5,5 phút
  • Tỉ lệ lực đẩy/khối lượng: 0,43
  • Tỉ lệ lực nâng/lực cản: 17,7

    Vũ khí

  • 6 x súng máy Browning M2 12,7 mm (0,50 in), 300 viên đạn mỗi khẩu tổng cộng 1.800 viên đạn
  • 2 x bom 454 kg (1.000 lb)
  • 8 x rocket không điều khiển
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Chiếc **Lockheed P-80 Shooting Star** là kiểu máy bay tiêm kích phản lực đầu tiên đưa vào hoạt động trong Không lực Lục quân Hoa Kỳ và, dưới tên gọi F-80, tham gia hoạt động
**Lockheed T-33 Shooting Star** (hay **T-Bird**) là một loại máy bay huấn luyện phản lực của Hoa Kỳ. Do hãng Lockheed thiết kế chế tạo, bay thử lần đầu năm 1948, do phi công Tony
**Lockheed Corporation** là một công ty hàng không vũ trụ của Hoa Kỳ. Lockheed được thành lập vào năm 1926 và sau này sáp nhập với Martin Marietta trở thành Lockheed Martin vào năm 1995.
Chiếc **Lockheed F-94** là kiểu máy bay tiêm kích đánh chặn phản lực hoạt động trong mọi thời tiết đầu tiên được đưa vào hoạt động trong Không quân Hoa Kỳ. ## Thiết kế và
Mikoyan-Gurevich **MiG-15** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-15) (tên ký hiệu của NATO đặt là "**Fagot**") là một máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ nhất của Liên Xô do Artem Mikoyan và
__NOTOC__ Danh sách máy bay :A B C-D E-H I-M N-S T-Z ## I ### IAI * IAI Arava * IAI Astra * IAI C-38 Courier * IAI F-21 Kfir * IAI Galaxy * IAI
thế=Một phi công của Không quân Hoa Kỳ điều khiển một máy bay F-35A Lightning II được giao cho Phi đội Tiêm kích 58, Phi đoàn Tiêm kích 33 vào vị trí để tiếp nhiên
Đây là danh sách các sự kiện hàng không nổi bật xảy ra trong năm 1946: ## Các sự kiện ### Tháng 1 * 10 tháng 1 - Một chiếc Sikorsky R5 lập một kỷ
**North American Aviation P-51 Mustang** là một máy bay tiêm kích một chỗ ngồi tầm xa của Hoa Kỳ được sử dụng trong Chiến tranh thế giới thứ hai và Chiến tranh Triều Tiên. Chiếc
Đây là danh sách máy bay phản lực được phát triển trong Chiến tranh Thế giới II: ## Khối Đồng minh ### #### Thử ngiệm *Gloster E.28/39 – 15/5/1941, đây là máy bay đầu tiên
**McDonnell XF-85 Goblin** là một mẫu thử máy bay tiêm kích do hãng McDonnell Aircraft thai nghén từ Chiến tranh Thế giới II. XF-85 sẽ được phóng đi từ khoang quân giới trên một chiếc
Đây là danh sách các sự kiện hàng không nổi bật xảy ra trong năm 1947: ## Các sự kiện ### Tháng 1 *26 tháng 1 - một chiếc Douglas Dakota của hãng hàng không
**Bell XP-83** là một mẫu thử máy bay tiêm kích hộ tống của Hoa Kỳ do hãng Bell Aircraft thiết kế trong Chiến tranh Thế giới II. Nó bay lần đầu vào năm 1945. Đây
**de Havilland DH.100 Vampire** là một loại máy bay tiêm kích trang bị động cơ phản lực được trang bị cho Không quân Hoàng gia (RAF) vào cuối Chiến tranh thế giới II. Sau Gloster
**Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản**, tên chính thức trong tiếng Nhật là , là lực lượng vũ trang của Nhật Bản, được thành lập căn cứ Luật Lực lượng phòng vệ năm 1954. Lực
Chiếc máy bay ném bom phản lực Boeing **B-47 Stratojet** là một kiểu máy bay tầm trung có tải trọng bom trung bình, có khả năng bay nhanh ở tốc độ cận âm, được thiết