✨Loạn hai thôn Đường, Nguyễn

Loạn hai thôn Đường, Nguyễn

Loạn hai thôn Đường, Nguyễn ở Thái Bình (nay thuộc vùng giáp ranh giữa Vĩnh Phúc và Hà Nội) là cuộc nổi dậy vào năm 965 Đường Lâm và Nam Nguyễn huyện Ba Vì, Hà Tây, thuộc vùng cát cứ Ngô Nhật Khánh, hoặc Đường Lâm thuộc vùng cát cứ của Ngô Nhật Khánh và Nguyễn Gia Loan, huyện Vĩnh Lạc, tỉnh Vĩnh Phú thuộc vùng cát cứ của Nguyễn Khoan.

Theo chú thích của Từ điển Lạc Việt thì: Đường Nguyễn là tên gọi tắt hai thôn ở trấn Sơn Tây: thôn Đường Lâm và thôn Nguyễn Gia Loan. Thôn Đường Lâm là quê Ngô Quyền, Ngô Xương Xí và thôn Nguyễn Gia Loan, thôn ấp của sứ quân Nguyễn Khoan. Trước đây hai thôn thuộc huyện Yên Lạc, tỉnh Sơn Tây

Sử gia Trần Quốc Vượng trong bài viết "Về quê hương Ngô Quyền" trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 101 để chứng minh Đường Lâm là ở Sơn Tây (Hà Nội) ngày nay có suy đoán: "thôn Đường thuộc Thái-bình là đất Đường-lâm, nơi sứ quân Ngô-nhật-Khánh cát cứ, còn thôn Nguyễn thuộc Thái-bình là Nguyễn-gia hay Nguyễn-gia-Loan nơi sứ quân Nguyễn Khoan cát cứ".

Dù ở trường hợp nào thì 2 thôn Đường, Nguyễn cũng là những nơi thuộc vùng đất quê hương nhà Ngô và cách kinh đô Cổ Loa chưa tới 50 km.

Sự kiện

Khác với những lực lượng nổi dậy thời Ngô khác, lực lượng hai thôn Đường, Nguyễn không được sử sách đề cập về người đứng đầu, dù thời gian cát cứ chống triều đình khá dài (lực lượng khác được nhắc đến là Đinh Bộ Lĩnh ở Hoa Lư, Chu Thái ở Thao Giang, Lã Xử Bình ở Cổ Loa, Dương Huy ở châu Vũ Ninh và tên tuổi 12 sứ quân cuối thời Ngô).

Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì cuộc nổi dậy ở hai thôn Đường Nguyễn có từ thời Dương Tam Kha. Năm 950, Dương Tam Kha sai Xương Văn và hai chỉ huy sứ Dương Cát Lợi và Đỗ Cảnh Thạc đem quân đi đánh hai thôn Đường, Nguyễn ở Thái Bình. Nhưng khi mang quân đến Từ Liêm, Xương Văn bảo hai sứ rằng: :"Đức của Tiên vương ta thấm khắp lòng dân, phàm chính lệnh ban ra không ai không vui lòng nghe theo, không may lìa bỏ quần thần, Bình Vương tự làm việc bất nghĩa, cướp ngôi của anh em ta, tội không gì to bằng. Nay lại sai bọn chúng ta đi đánh các ấp không có tội, may mà đánh được thì thôi, nếu họ không phục thì làm thế nào?"

Hai sứ đều xin theo lệnh của Xương Văn, đem quân quay lại đánh úp Bình Vương và khôi phục cơ nghiệp của Nhà Ngô.

Dưới thời Ngô Xương Văn trị vì, hai thôn Đường, Nguyễn vẫn là lực lượng chống triều đình. Vì vậy năm 965, sau khi đánh dẹp được quân nổi dậy Chu Thái ở Thao Giang, Nam Tấn vương lại đem quân đi đánh hai thôn ở Thái Bình. Quân đến nơi, cắm thuyền, lên bộ đánh nhau. Nam Tấn vương bị trúng tên nỏ mai phục bắn và tử trận.

Sau đó sử sách không đề cập đến hai thôn Đường Nguyễn nữa, không rõ kết cục của lực lượng này ra sao. Lực lượng này tồn tại ít nhất 15 năm (950-965) và cả hai cuộc tấn công của triều đình trung ương tới đây đều không thành. Đến thời điểm Đinh Bộ lĩnh dẹp xong 12 sứ quân, không thấy nói đến lực lượng này.

Nhận định

Các sử gia Việt Nam chỉ chê trách Nam Tấn Vương trong việc xuất quân đánh dẹp thôn Đường, Nguyễn bị thất bại chứ chưa trực tiếp bàn tán đến lực lượng thôn Đường và thôn Nguyễn:

Đại Việt sử ký toàn thư nhận xét về Ngô Xương Văn: "Vua nối được kỷ cương hoàng gia, khôi phục cơ nghiệp cũ. Tiếc rằng gây việc can qua ở trong nước đến nỗi bị chết." Lê Văn Hưu viết: "Nam Tấn Vương... một sớm đắc chí, không biết cẩn thận giữ mình, cho nên hưởng nước ngắn ngủi, không có chính tích gì, đáng tiếc thay". Sử thần Ngô Sĩ Liên viết: "Nam Tấn Vương ... tham việc can qua, vì hành động đánh dẹp càn rỡ ở hai thôn Đường, Nguyễn, rốt cuộc lại tự giết mình. Đáng tiếc thay!"

Từ khi Tam Kha cướp ngôi nhà Ngô, thổ hào các nơi đua nhau nổi dậy. Xương Văn tuy lấy lại được nước, nhưng chính sự cẩu thả, không thể thống nhất được; đến khi đi đánh Thái Bình, không được, bị chết trận, từ đó trong nước rối loạn. Một viên tướng người họ Ngô là Ngô Xương Xí tụ tập quân giữ Bình Kiều. Nha tướng nhà Ngô là Đỗ Cảnh Thạc giữ Đỗ Động Giang. Thổ hào các nơi khác cũng nổi lên mỗi người giữ một nơi, ai cũng xưng hùng trưởng. Cứ thế mà suy ra, mười hai sứ quân chiếm giữ các huyện ấy phải có kẻ trước kẻ sau, không giống nhau, chứ không phải đến khi Nam Tấn Vương mất rồi, mười hai sứ quân mới đồng thời nổi dậy. Nhưng Sử cũ vì không biết rõ năm tháng của từng sứ quân, nên mới nói tổng hợp ở cả một chỗ ấy đấy thôi. Nay không có văn kiện chép rõ có thể chứng thực được, nên hãy xin ghi để xét sau.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Loạn hai thôn Đường, Nguyễn** ở Thái Bình (nay thuộc vùng giáp ranh giữa Vĩnh Phúc và Hà Nội) là cuộc nổi dậy vào năm 965 *Đường Lâm và Nam Nguyễn huyện Ba Vì, Hà
nhỏ|Sơ đồ vị trí [[12 sứ quân]] **Nguyễn Khoan** (chữ Hán: 阮寬; 906 - 967) hay **Nguyễn Thái Bình** (阮太平) là một sứ quân nổi dậy trong thời loạn 12 sứ quân trong lịch sử
**Loạn 12 sứ quân** (chữ Hán: 十二使君之亂, _Thập nhị sứ quân chi loạn_) là một giai đoạn nội chiến diễn ra vào cuối thời nhà Ngô, kéo dài từ năm 944 sau khi Ngô Quyền
Sơ đồ vị trí [[12 sứ quân]] **Ngô Nhật Khánh** (chữ Hán: 吳日慶; ? - 979), Tước hiệu **Ngô Lãm công** (吳覽公) hoặc **Ngô An vương** (吳安王), là một thủ lĩnh thời 12 sứ quân
**Khu di tích Đỗ Động Giang** là một căn cứ quân sự từ thời 12 sứ quân giữa thế kỷ X trong lịch sử Việt Nam, do vị thủ lĩnh chiếm đóng tại đây là
**Nguyễn Bặc** (chữ Hán: 阮匐; 924 - 7 tháng 11 năm 979), hiệu **Định Quốc Công** (定國公), là khai quốc công thần nhà Đinh, có công giúp Đinh Tiên Hoàng đánh dẹp, chấm dứt loạn
**Nguyễn Bỉnh Khiêm** (chữ Hán: 阮秉謙; 13 tháng 5 năm 1491 – 28 tháng 11 năm 1585), tên huý là **Văn Đạt** (文達), tự là **Hanh Phủ** (亨甫), hiệu là **Bạch Vân am cư sĩ**
**Nhà Nguyên** (tiếng Trung: 元朝, bính âm: _Yuán Cháo_, Hán-Việt: _Nguyên triều_) hay **Đại Nguyên** (Tiếng Trung: 大元, bính âm: _Dà Yuán_) là nhà nước kế tục của Đế quốc Mông Cổ và đánh dấu
**Ngô Xương Văn** (chữ Hán: 吳昌文; 934 – 965) là một vị vua nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì từ 950 đến 965, trong đó khoảng từ 951 – 954 ông
right|thumb|Tượng Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh trong đình Bình Kính, [[Hiệp Hòa, Biên Hòa|xã Hiệp Hòa, Biên Hòa]] **Nguyễn Hữu Cảnh** (chữ Hán: 阮有鏡, 1650 – 1700), nguyên danh là **Nguyễn Hữu Kính**, với
**Hải Dương** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Hải Dương, Việt Nam. Thành phố Hải Dương là trung tâm kinh tế, kỹ thuật, giáo dục, khoa học, y tế, dịch vụ của tỉnh
**Đường Thái Tông** (chữ Hán: 唐太宗, 28 tháng 1 năm 598 – 10 tháng 7 năm 649), tên thật **Lý Thế Dân** (李世民), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Đường trong
**Nguyễn Phúc Thuần** (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay **Nguyễn Duệ Tông**, **Định Vương** còn có tên khác là **Nguyễn Phúc Hân**, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa
**Lý Tự Nguyên** (李嗣源, sau đổi thành **Lý Đản** (李亶)) (10 tháng 10 năm 867), còn được gọi theo miếu hiệu là **Hậu Đường Minh Tông** ( 后唐明宗), là hoàng đế thứ hai của nhà
**Nguyễn Hoàng** (chữ Hán: 阮潢; 28 tháng 8 năm 1525 – 20 tháng 7 năm 1613) hay **Nguyễn Thái Tổ**, **Chúa Tiên**, **Quốc chúa** là vị Chúa Nguyễn đầu tiên, người đặt nền móng cho
**Nguyễn Cảnh Kiên** (阮景健 21 tháng 8 1553 - 4 tháng 8 1619) là một vị tướng thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam, làm quan tới chức Tả Đô đốc Thượng tướng
**Kinh tế Việt Nam thời nhà Nguyễn** phản _ánh kết quả hoạt động của các_ ngành nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương mại Việt Nam dưới sự cai trị của nhà Nguyễn thời kỳ
**Đường Cao Tông** (chữ Hán: 唐高宗, 21 tháng 7 năm 628 - 27 tháng 12 năm 683) là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
Đình Đông Phù, Thanh Trì là nơi thờ sứ quân Nguyễn Siêu **Nguyễn Siêu** (chữ Hán: 阮超; 924 - 967) hiệu _Nguyễn Hữu Công_ (阮右公) là một sứ quân nổi dậy thời loạn 12 sứ
**Nguyễn** (đôi khi viết tắt Ng̃, ) là họ của người Á Đông, đồng thời là họ phổ biến nhất của người Việt tại Việt Nam. Theo nhiều cuộc điều tra, số người mang họ
**Hậu Ngô Vương** (後吳王) là thời kỳ cuối cùng của nhà Ngô, tính từ năm 950 đến 965. Hậu Ngô Vương gồm hai vua **Nam Tấn vương** và **Thiên Sách vương**. Một triều đình có
**Thanh Hải** (), là một tỉnh thuộc Tây Bắc Trung Quốc. Năm 2018, Thanh Hải là tỉnh đứng thứ ba mươi mốt về số dân, đứng thứ ba mươi về kinh tế Trung Quốc với
**Nguyễn Văn Trỗi** (1 tháng 2 năm 1940 – 15 tháng 10 năm 1964) là một chiến sĩ biệt động thành phố Sài Gòn, đoàn viên Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, đã
**Trận El Alamein thứ hai** diễn ra trong vòng 20 ngày từ 23 tháng 10 đến 11 tháng 11 năm 1942 ở gần thành phố duyên hải El Alamein của Ai Cập, và chiến thắng
Hoa phượng đỏ, biểu tượng của người Hải Phòng Dưới đây là **danh sách những nhân vật tiêu biểu** là những người đã sinh ra tại Hải Phòng, có quê quán (nguyên quán) ở Hải
**Thượng Hải** (chữ Hán: 上海, bính âm: _Shànghǎi_) là thành phố đông dân nhất Trung Quốc, và là thành phố không bao gồm vùng ngoại ô lớn nhất thế giới. Thượng Hải nằm ở bờ
**Nguyễn Nhạc** (chữ Hán: 阮岳; 1743 – 1793) hay còn gọi là **Nguyễn Văn Nhạc**, là vị hoàng đế sáng lập ra Nhà Tây Sơn và ở ngôi hoàng đế từ năm 1778 đến năm
**Trận hồ Bà Dương** (; Hán Việt: Bà Dương hồ chi chiến) là một trận thủy chiến diễn ra trên hồ Bà Dương từ ngày 30 tháng 8 tới ngày 4 tháng 10 năm 1363
**Nam Đường** (tiếng Trung Quốc: 南唐; pinyin Nán Táng) là một trong 10 nước thời Ngũ đại Thập quốc ở trung-nam Trung Quốc được thành lập sau thời nhà Đường, tồn tại từ năm 937–975.
**Nguyễn Văn Giai** (chữ Hán: 阮文階, 1555 - 1628) là một Tam nguyên Hoàng giáp, từng giữ chức Tể tướng, tước Thái bảo, Quận công, công thần "khai quốc" thời Lê trung hưng, nổi tiếng
**Ngô Xương Ngập** (chữ Hán: 吳昌岌; ? - 954) là một vị vua nhà Ngô, trị vì từ 951 đến 954 cùng với em trai là Ngô Xương Văn. Sử gọi chung đó là thời
**Nhà Đường** là một hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 618 đến năm 907. Thành lập bởi gia tộc họ Lý, nhà Đường là triều đại kế tục nhà Tùy (581–618) và là
Sơ đồ vị trí [[12 sứ quân]] **Đỗ Cảnh Thạc** (chữ Hán: 杜景碩; 912 - 967) là tướng nhà Ngô, sau trở thành một thủ lĩnh thời loạn 12 sứ quân trong lịch sử Việt
**Biểu tình Tây Nguyên 2004** (còn được biết đến với tên gọi **Bạo loạn Tây Nguyên 2004 hoặc **Thảm sát Phục Sinh''') là một cuộc biểu tình của người Thượng xảy ra vào Lễ Phục
**Nguyễn Trường Tộ** (chữ Hán: 阮長祚, 1830? – 1871), còn được gọi là **Thầy Lân**, là một danh sĩ, kiến trúc sư, và là nhà cải cách xã hội Việt Nam ở thế kỷ 19.
thumb|Tranh La Mã mô tả đám cưới giữa hai chị em [[Jupiter (thần thoại)|Jupiter và Juno, thế kỷ I]] **Loạn luân** hoặc **phi luân** là hoạt động tình dục giữa những người trong cùng gia
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
**Nguyên Huệ Tông** (chữ Hán: 元惠宗; 25 tháng 5, 1320 – 23 tháng 5, 1370), tên thật là **Thỏa Hoan Thiết Mộc Nhĩ** (妥懽貼睦爾; ), Hãn hiệu **Ô Cáp Cát Đồ hãn** (烏哈噶圖汗; ), là
**Đường Trung Tông Vi Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐中宗韋皇后, ? - 21 tháng 7, năm 710), thường gọi **Vi hậu** (韋后) hay **Vi Thái hậu** (韋太后) hoặc **Trung Tông Vi Thứ nhân** (中宗韋庶人), kế phối,
**Tết Nguyên Đán** (còn gọi là **Tết Cả**, **Tết Ta**, **Tết Âm lịch**, **Tết Cổ truyền**, **Tết Á Đông** hay đơn giản là **Tết**) là dịp lễ đầu năm mới theo âm lịch của Việt
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
Sơ đồ vị trí [[12 sứ quân]] **Dương Huy** (楊輝, ? - 966) là một thủ lĩnh địa phương thời nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam. Khi Ngô Xương Văn mất, Dương Huy đã
[[Tùy Dạng Đế, do họa sĩ thời Đường Diêm Lập Bản họa (khoảng 600–673)]] Chân dung [[Đường Cao Tổ]] **Tùy mạt Đường sơ** (隋末唐初) đề cập đến một giai đoạn mà trong đó triều đại
**Nguyễn Cảnh Hoan** (阮景節 1521-1576) là tướng nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam, có tài liệu chép là Nguyễn Cảnh Mô, Trịnh Mô, Nguyễn Hoan tước Tấn Quận công, giữ chức Binh
Sơ đồ vị trí [[12 sứ quân]] **Lã Xử Bình** (呂處坪, ? - 966) là tướng nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam. Khi Ngô Xương Văn mất, Lã Xử Bình đã cùng Kiều Tri
nhỏ|Hình ảnh các sĩ quan cảnh sát ghi lại những hành động kỳ lạ của một nhóm người (một người ở bên trái, người thứ hai ở lan can của lối ra tàu điện ngầm
**Hậu Tấn Cao Tổ** (30 tháng 3, 892), tên thật là **Thạch Kính Đường** (石敬瑭), là hoàng đế đầu tiên của triều Hậu Tấn, vương triều thứ 3 trong 5 vương triều Ngũ đại, thời
**Nguyễn Phúc Khoát** (chữ Hán: 阮福濶), hay **Nguyễn Thế Tông**, húy là **Hiểu** (chữ Hán: 曉), còn gọi là **Chúa Võ**, hiệu **Vũ vương** hay **Võ vương** (1714–1765) là vị chúa Nguyễn thứ 8 của
**Nguyễn Xuân Đàm** (阮春談, 1889-1953), hiệu **Tùng Lâm**, là một danh sĩ Việt Nam cuối thế kỷ 19, nửa đầu thế kỷ 20. Ông đỗ Phó bảng khoa thi Kỷ Mùi (1919), kỳ thi Nho
Bệnh viện Hữu Nghị Việt Tiệp là cơ sở y tế hàng đầu trong việc chăm sóc sức khỏe cho nhân dân thành phố Hải Phòng và vùng Duyên hải Bắc Bộ. Bệnh viện Hữu