Lê Nguyên Khang (1931 - 1996) nguyên là một tướng lĩnh gốc Hải quân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ khóa đầu tiên tại trường Sĩ quan Trừ bị do Quốc gia Việt Nam mở ra ở miền Bắc Việt Nam. Ra trường, ông phục vụ trong Quân chủng Hải quân, sau chuyển sang bộ phận Bộ binh Hải quân (Thủy quân Lục chiến). Hầu hết thời gian tại ngũ ông phục vụ trong Binh chủng này. Ông là người chỉ huy Binh chủng Thủy quân Lục chiến với thời gian lâu nhất. Ông cũng từng là chỉ huy đơn vị cấp Biệt khu, Quân đoàn và là sĩ quan giữ chức vụ cao cấp tại Bộ Tổng Tham mưu.
Tiểu sử và Binh nghiệp
Ông sinh vào tháng 10 năm 1931 trong một gia đình gia giáo thuộc dòng tộc "Lê Nguyên" danh tiếng ở Sơn Tây, miền Bắc Việt Nam. Ông học Tiểu học và Trung học Đệ nhất cấp ở Sơn Tây. Khi lên Đệ nhị cấp ông được ra Hà Nội học ở trường Trung học Chu Văn An, là trường Công lập của nhà nước dạy theo Giáo trình Pháp. Năm 1951, ông tốt nghiệp với văn bằng Tú tài bán phần (Part I).
Quân đội Quốc gia Việt Nam
Tháng 9 năm 1951, sau khi tốt nghiệp Phổ thông Trung học, ông tình nguyện nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia, mang số quân: 51/700.272. Theo học khóa 1 Lê Lợi tại trường Sĩ quan trừ bị Nam Định, khai giảng ngày 1 tháng 10 năm 1951. Ngày 1 tháng 6 năm 1952 mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy. Ra trường ông được phục vụ trong đơn vị Hải quân. Cuối năm 1953, ông được thăng cấp Trung úy giữ chức Giang đoàn trưởng thuộc Đệ tam Liên đoàn Tuần giang Xung kích tại Nam Định.
Quân đội Việt Nam Cộng hòa
Đầu năm 1955, ông được thăng cấp Đại úy, làm Đại đội trưởng Đại đội Hành chính Công vụ của Tiểu đoàn Bộ binh Hải quân. Giữa năm 1956, ông được cử đi du học lớp Bộ binh Cao cấp tại trường Võ bị Liên quân Fort Benning thuộc Tiểu bang Georgia, Hoa Kỳ. Mãn khóa về nước, ông được cử làm Sĩ quan Liên lạc của Thủy quân Lục chiến bên cạnh Bộ Tư lệnh Hải Quân. Tháng 9 năm 1957, ông giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Hải quân Đổ bộ thay thế Đại úy Vòng A Sam, đồn trú tại Động Ba Thìn, Khánh Hòa. Tháng 5 năm 1958, ông tiếp tục được cử đi du học lớp Tham mưu đổ bộ tại Trung tâm Huấn luyện Thủy quân Lục chiến Quantico thuộc Tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ. Mãn khóa về lại đơn vị cũ.
Đầu năm 1960, chuyển qua Tiểu đoàn 1 Thủy quân Lục chiến làm Tiểu đoàn trưởng thay thế Đại úy Nguyễn Văn Tài, được biệt phái sang lãnh vực Hành chính. Tháng 4 cùng năm, ông được thăng cấp Thiếu tá và được cử giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Liên đoàn Thủy quân Lục chiến thay thế Thiếu tá Lê Nhữ Hùng đi làm Tỉnh trưởng Kiến Hòa. Đầu năm 1962, ông được thăng cấp Trung tá tại nhiệm.
Sau đảo chính Tổng thống Ngô Đình Diệm ngày 1 tháng 11 năm 1963. Ngày 2 tháng 11, ông được thăng cấp Đại tá và được cử đi làm Tùy viên Quân sự tại Manila, Philippines, sau khi bàn giao Liên đoàn Thủy quân Lục chiến lại cho Trung tá Nguyễn Bá Liên.
Tháng 4 năm 1964, sau cuộc Chỉnh lý của tướng Nguyễn Khánh, ông được triệu hồi về nước, tái nhiệm chức vụ Tư lệnh Lữ đoàn Thủy quân Lục chiến, hoán chuyển nhiệm vụ với Trung tá Nguyễn Bá Liên. Ngày 11 tháng 8 năm 1964, ông được thăng cấp Chuẩn tướng. Hơn 2 tháng sau vào ngày 21 tháng 10, ông được thăng cấp Thiếu tướng nhiệm chức.
Ngày 14-4-1965, ông được cử Xử lý Thường vụ Tư lệnh Hải quân, tạm thời thay thế Đề đốc Chung Tấn Cang cho đến ngày 26-4, sau đó từ chối chức vụ này với lý do không xuất thân từ Quân chủng Hải Quân và hơn 10 ngày sau, ngày 26 tháng 4 ông bàn giao Bộ Tư lệnh Hải quân lại cho Hải quân Đại tá Trần Văn Phấn. Ngày 20-6-1965, ông được kiêm nhiệm 2 chức vụ: Tư lệnh Biệt khu Thủ đô và Tổng trấn Sài Gòn - Gia Định thay thế Chuẩn tướng Vĩnh Lộc. Ngày 1-11-1965, vinh thăng Thiếu tướng thực thụ.
Ngày 9 tháng 6 năm 1966, ông kiêm thêm chức vụ Tư lệnh Quân đoàn III và Vùng III Chiến thuật thay thế Thiếu tướng Nguyễn Bảo Trị (cho đến ngày 5-8-1968), đồng thời bàn giao Biệt khu Thủ đô và chức vụ Tổng trấn Sài Gòn - Gia Định lại cho Đại tá Nguyễn Văn Giám. Ngày 1-11-1966 vinh thăng Trung tướng nhiệm chức.
Tháng 8 năm 1968, sau trận Mậu thân đợt 2, ông tiếp tục bàn giao lại cho Trung tướng Đỗ Cao Trí chức vụ Tư lệnh Quân đoàn III, chỉ còn được giữ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn Thủy quân Lục chiến.
Đầu tháng 5 năm 1972, sau chiến trận Mùa hè đỏ lửa, liên đới cùng tướng Hoàng Xuân Lãm (Tư lệnh Quân đoàn I) trong vụ để mất tỉnh Quảng Trị, ông bị cách chức Tư lệnh Sư đoàn Thủy quân Lục chiến. Sau đó bàn giao Sư đoàn lại cho Đại tá Bùi Thế Lân (nguyên Tư lệnh phó Sư đoàn). Sau đó ông được chuyển về Bộ Tổng Tham mưu giữ chức vụ Tổng Thanh tra Quân lực Việt Nam Cộng hòa (một chức vụ không có thực quyền) thay thế Trung tướng Lữ Lan. Tháng 11 năm 1974, bàn giao chức Tổng thanh tra Quân lực cho Trung tướng Nguyễn Văn Minh, ông được cất nhắc đảm trách chức vụ Phụ tá Hành quân cho Tổng Tham mưu trưởng Cao Văn Viên.
1975
Ngày 30 tháng 4 tháng năm 1975, cùng gia đình di tản khỏi Việt Nam. Sau đó được sang Hoa Kỳ định cư ở Thành phố Los Angeles thuộc Tiểu bang California.
Ngày 12 tháng 11 năm 1996 ông từ trần tại West Covina, Los Angeles, California, Hoa Kỳ. Hưởng thọ 65 tuổi.
**Lê Nguyên Khang** (1931 - 1996) nguyên là một tướng lĩnh gốc Hải quân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ khóa đầu tiên tại trường Sĩ
**Đặng Lê Nguyên Vũ** (sinh ngày 10 tháng 2 năm 1971) là một doanh nhân Việt Nam. Ông là người sáng lập, chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Tập đoàn Trung Nguyên, Việt Nam. Ông
**Nguyễn Khang** (5 tháng 2 năm 1912 – 15 tháng 11 năm 1989), quê tại làng Yên Thái (làng Bưởi), quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội, là một họa sĩ Việt Nam. Ông là
**Đoàn Nguyên Khang** (sinh ngày 25 tháng 7 năm 1984 tại Thành phố Hồ Chí Minh) là người dẫn chương trình, phát thanh viên đầu tiên của chương trình Xone FM trên Đài tiếng nói
**Nguyễn Bá Liên** (1933-1969), nguyên là một sĩ quan cao cấp thuộc Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Ông xuất thân từ trường Võ bị Liên quân thời kỳ Quân đội Quốc
**Nguyễn Bảo Trị** (26/1/1929-8/1/2024) nguyên là tướng lĩnh bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ khóa đầu tiên và cũng là khóa duy nhất ở
**Bình Lệ Nguyên** là một vùng đất thời nhà Trần, nay thuộc huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc. Thời nhà Lê, đây là **huyện Bình Nguyên**. Sang thời nhà Mạc đổi tên là **Bình Tuyên**.
**Nguyễn Phúc Vĩnh Lộc** (1923 – 2009), thường được gọi tắt là **Vĩnh Lộc**, nguyên là một tướng lĩnh Thiết giáp của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân
**Kháng thể** (**Antibody, Ab**), còn được gọi là **immunoglobulin** (**Ig**), là một protein lớn, hình chữ Y được hệ thống miễn dịch sử dụng để xác định và vô hiệu hóa các vật thể lạ
**_Án lệ 13/2017/AL_** về hiệu lực thanh toán của thư tín dụng (L/C) trong trường hợp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là cơ sở của L/C bị hủy bỏ hay **_Án lệ
**Lê Thái Tổ** (chữ Hán: 黎太祖 10 tháng 9 năm 1385 – 5 tháng 10 năm 1433), tên thật là **Lê Lợi** (黎利) là một nhà chính trị, nhà lãnh đạo quân sự, người đã
**Án lệ 55/2022/AL** về công nhận hiệu lực của hợp đồng vi phạm điều kiện về hình thức là án lệ thứ 55 thuộc lĩnh vực dân sự của hệ thống pháp luật Việt Nam,
**_Án lệ 45/2021/AL_** về xác định bị cáo phạm tội "Giết người" thuộc trường hợp "Phạm tội chưa đạt" là án lệ công bố thứ 45 thuộc lĩnh vực hình sự của Tòa án nhân
**Án lệ 53/2022/AL** về việc hủy kết hôn trái pháp luật là án lệ thứ 53 thuộc lĩnh vực hôn nhân và gia đình của hệ thống pháp luật Việt Nam, được Hội đồng Thẩm
**_Án lệ 32/2020/AL_** về trường hợp đất do cá nhân khai phá nhưng sau đó xuất cảnh định cư ở nước ngoài và người khác đã quản lý, sử dụng ổn định, lâu dài là
Di tích đài tưởng niệm kênh Nhà Lê ở Nghệ An năm 2009 Âu cầu Hội - [[cửa biển Thần Phù|cửa Thần Phù trên sông Nhà Lê ở Yên Mô, Ninh Bình]] **Kênh Nhà Lê**
**_Án lệ 42/2021/AL_** về quyền lựa chọn Tòa án giải quyết tranh chấp của người tiêu dùng trong trường hợp hợp đồng theo mẫu có thỏa thuận trọng tài hay **_Án lệ Vịnh Thiên Đường_**,
**Nguyễn Phúc Tần** (chữ Hán: 阮福瀕, 18 tháng 7 năm 1620 - 30 tháng 4 năm 1687), hay **Nguyễn Thái Tông**, tước hiệu **Dũng Quận công** (勇郡公), và được người trong lãnh thổ gọi là
**Án lệ 54/2022/AL** về xác định quyền nuôi con dưới 36 tháng tuổi trong trường hợp người mẹ không trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con là án lệ thứ 54 thuộc lĩnh
**Hồ Nguyên Trừng** (chữ Hán: 胡元澄 1374–1446) biểu tự **Mạnh Nguyên** (孟源), hiệu **Nam Ông** (南翁), sau đổi tên thành **Lê Trừng (黎澄)** là một nhà chính trị, quân sự, tôn thất hoàng gia Đại
**Lê Thế Tông** (chữ Hán: 黎世宗 1567 - 12 tháng 10 năm 1599), tên húy là **Lê Duy Đàm** (黎維潭), là vị hoàng đế thứ tư của Hoàng triều Lê - giai đoạn Trung hưng
**Anphong Nguyễn Hữu Long** (sinh ngày 25 tháng 1 năm 1953) là một giám mục Công giáo người Việt Nam. Ông hiện đảm nhận vai trò giám mục chính tòa Giáo phận Vinh, 2016 –
**Chiến tranh Mông Nguyên – Đại Việt lần thứ nhất** hay **Kháng chiến chống Mông Nguyên lần thứ nhất** là cách người Việt Nam gọi cuộc chiến đấu của quân dân Đại Việt chống lại
**Nguyễn Trường Tộ** (chữ Hán: 阮長祚, 1830? – 1871), còn được gọi là **Thầy Lân**, là một danh sĩ, kiến trúc sư, và là nhà cải cách xã hội Việt Nam ở thế kỷ 19.
**Nguyễn Hoàng** (chữ Hán: 阮潢; 28 tháng 8 năm 1525 – 20 tháng 7 năm 1613) hay **Nguyễn Thái Tổ**, **Chúa Tiên**, **Quốc chúa** là vị Chúa Nguyễn đầu tiên, người đặt nền móng cho
**Lê Thái Tông** (chữ Hán: 黎太宗 22 tháng 12 năm 1423 – 7 tháng 9 năm 1442), tên húy **Lê Nguyên Long** (黎元龍), là vị hoàng đế thứ hai của hoàng triều Lê nước Đại
**Chiến tranh Mông Nguyên- Đại Việt** hay **Kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên** (tên gọi ở Việt Nam) là một cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc của quân và dân Đại Việt
**Lê Kim Khánh** (sinh ngày 24 tháng 12 năm 1981), thường được biết đến với nghệ danh **Lê Khánh**, là một nữ diễn viên kiêm người dẫn chương trình truyền hình người Việt Nam. Là
**Nguyễn** (đôi khi viết tắt Ng̃, ) là họ của người Á Đông, đồng thời là họ phổ biến nhất của người Việt tại Việt Nam. Theo nhiều cuộc điều tra, số người mang họ
**Đinh Lễ** (chữ Hán: 丁禮; ?-1427) là công thần khai quốc nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam, người sách Thùy Cối, nay là Lam Sơn, Thọ Xuân, Thanh Hoá, Việt Nam. Ông tham
**Lê Dương Bảo Lâm** (sinh ngày 11 tháng 7 năm 1989), hay còn được biết đến với nghệ danh **Dương Lâm**, là một nam diễn viên, nghệ sĩ hài kiêm người dẫn chương trình truyền
**Nguyễn Thành Hoàng** (1924), nguyên là cựu tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị Quốc gia do Chính phủ Quốc
**Án lệ 68/2023/AL** về quyền nhận di sản bằng hiện vật là nhà ở của người thừa kế là người Việt Nam định cư ở nước ngoài là án lệ thứ 68 thuộc lĩnh vực
**_Án lệ 04/2016/AL_** là án lệ công bố thứ 4 thuộc lĩnh vực dân sự của Tòa án nhân dân tối cao tại Việt Nam, được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
**_Án lệ 09/2016/AL_** là án lệ công bố thứ 9 thuộc lĩnh vực kinh doanh thương mại của Tòa án nhân dân tối cao tại Việt Nam, được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
**_Án lệ 39/2020/AL_** về xác định giao dịch dân sự có điều kiện vô hiệu do điều kiện không thể xảy ra là án lệ công bố thứ 39 thuộc lĩnh vực dân sự của
**_Án lệ 31/2020/AL_** về xác định quyền thuê nhà, mua nhà thuộc sở hữu của Nhà nước theo Nghị định số 61/CP ngày 5 tháng 7 năm 1994 của Chính phủ là quyền tài sản
**_Án lệ 30/2020/AL_** về hành vi cố ý điều khiển phương tiện giao thông chèn lên bị hại sau khi xảy ra tai nạn giao thông là án lệ công bố thứ 30 thuộc lĩnh
**Tađêô Lê Hữu Từ** (28 tháng 10 năm 1897 – 24 tháng 4 năm 1967) là một giám mục Công giáo người Việt Nam, với khẩu hiệu giám mục là "Tiếng kêu trong hoang địa" (_Vox
**Hiếu Tĩnh Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝静成皇后, ; 19 tháng 6, năm 1812 - 21 tháng 8, năm 1855), còn gọi **Hiếu Tĩnh Khang Từ Hoàng hậu**, **Khang Từ Hoàng thái hậu** hay **Khang
**_Án lệ 02/2016/AL_** là án lệ công bố thứ 2 thuộc lĩnh vực dân sự của Tòa án nhân dân tối cao tại Việt Nam, được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
**_Án lệ 03/2016/AL_** là án lệ công bố thứ 3 thuộc lĩnh vực hôn nhân và gia đình của Tòa án nhân dân tối cao tại Việt Nam, được Hội đồng Thẩm phán thông qua,
**_Án lệ 35/2020/AL_** về người Việt Nam trước khi đi định cư ở nước ngoài giao lại đất nông nghiệp cho người ở trong nước sử dụng là án lệ công bố thứ 35 thuộc
**_Án lệ 40/2021/AL_** về công nhận việc chuyển đổi quyền sử dụng đất trên thực tế là án lệ công bố thứ 40 thuộc lĩnh vực dân sự của Tòa án nhân dân tối cao
**_Án lệ 33/2020/AL_** về trường hợp cá nhân được Nhà nước giao đất nhưng không sử dụng mà để người khác quản lý, sử dụng ổn định, lâu dài là án lệ công bố thứ
**_Án lệ 29/2019/AL_** về tài sản bị chiếm đoạt trong tội cướp tài sản là án lệ công bố thứ 29 thuộc lĩnh vực hình sự của Tòa án nhân dân tối cao tại Việt