✨La Hoằng Tín

La Hoằng Tín

La Hoằng Tín (chữ Hán: 羅弘信, bính âm: Luo Hongxin, 836 - 898), tên tự là Đức Phu (德孚), là Tiết độ sứ Ngụy Bác dưới thời nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, cai trị bán độc lập với chính quyền trung ương. Ông nắm quyền kiểm soát Ngụy Bác sau đợt binh biến năm 888 và cai trị trấn này 10 năm. Trong thời gian trị vì, ông ngả theo nghịch tặc Chu Ôn chống lại Đường Thái Tổ Lý Khắc Dụng. Ông qua đời năm 898, người con trưởng là La Thiệu Uy lên nối ngôi Tiết độ sứ.

Đoạt quyền cai trị Ngụy Bác

La Hoằng Tín nguyên quán ở Quý Hương, Ngụy châu. Tằng tổ phụ của ông là La Tú, tổ phụ La Trân, phụ thân La Nhượng đều chỉ làm tới chức quân giáo trong châu. Hoằng Tín từ nhỏ đã phục vụ trong quân đội Ngụy Bác dưới quyền các tiết độ sứ Hàn Giản và Nhạc Ngạn Trinh Chu Ôn (tên phản tặc của nhà Đường, về sau cướp ngôi, gọi là Ngụy Lương) là Lôi Nghiệp đến Ngụy châu mua lương thực, đã bị giết.

Binh sĩ ủng hộ Triệu Văn Biện nắm quyền chỉ huy. Nhạc Tòng Huấn nghe tin cha mình bị phế truất liền đem 30.000 binh đến tấn công Ngụy châu. Triệu Văn Biện không dám chống lại, quân sĩ liền giết giết ông ta rồi tôn La Hoằng Tín làm chủ soái. Nguyên khi trước có người khách xứ khác đến nói với La Hoằng Tín rằng ông không bao lâu nữa sẽ là chủ của đất Ngụy. Do đó khi quân sĩ truất Văn Biện và hỏi trong chư tướng ai có thể đảm nhận trọng trách, Hoằng Tín xin được lĩnh trách nhiệm, quân sĩ bằng lòng.

Giữ Chu và Lý

Năm 889 được thụ phong Kiểm giáo tư không, Đồng bình chương sự, tước Dự Chương quận công. Lúc này trấn Ngụy Bác nằm giữa hai trấn lớn là Tuyên Vũ của nghịch thần Chu Ôn và Hà Đông của Đường Thái Tổ Lý Khắc Dụng. Từ sau Sự kiện quán dịch Thượng Nguyên, Chu - Lý hai bên luôn muốn thôn tính lẫn nhau và Ngụy Bác trở thành khu vực mà cả hai đều muốn lôi kéo về phe mình.

Năm 889, Thái Nguyên (chỉ Đường Thái Tổ Lý Khắc Dụng) cho quân tấn công Mạnh Phương Lập ở Chiêu Nghĩa, Phương Lập tử trận. Em là Mạnh Thiên lên kế tập, cầu cứu Chu Ôn. Ôn cho quân tới cứu Chiêu Nghĩa và đến Ngụy Bác xin mượn đường, La Hoằng Tín không cho, do đó quân tiếp ứng không thể tới nơi dẫn đến cuối cùng Mạnh Thiên dâng ba châu Hình, Minh, Từ đầu hàng Thái Nguyên.

Năm 890, Chu Ôn yêu cầu La Hoằng Tín phải cho quân lính Tuyên Vũ mượn đường và cung cấp lương thực cho chiến dịch chống Thái Nguyên. La Hoằng Tín từ chối với lý do lương thực khan hiếm, bảo rằng binh lính của Ôn không cần phải đi qua lãnh địa Ngụy châu để lên phía bắc trong khi tiến đánh Thái Nguyên ở phía tây. Ngày 3 tháng 4 năm 891, Chu Ôn (đã đổi tên thành Chu Toàn Trung) đích thân dẫn quân đánh Ngụy cử Cát Tòng Chu và Đinh Hội làm phó, chiếm được bốn huyện và đại thắng quân Ngụy Bác trong một trận chiến tại Nội Hoàng. Sau các thất bại, La Hoằng Tín buộc phải sai sứ đến cầu hòa và quy phục Chu Toàn Trung.

La Hoằng Tín gửi quân hỗ trợ Tuyên Vũ nhưng chưa tuyện giao hẳn với Hà Đông. Năm 894, Tiết độ sứ Thiên Bình Chu Tuyên và Tiết độ sứ Thái Ninh Chu Cẩn cùng chống lại Chu Toàn Trung, sai sứ đến Hà Đông xin viện binh. Thái Nguyên sai quân đến cứu viện, đề nghị Hoằng Tín cho mượn đường, ông đồng ý. Cuối năm 895, quân Hà Đông do Sử Nghiễm và Lý Thừa Tự chỉ huy cũng được đi ngang qua lãnh thổ Ngụy Bác để đến Duyện Vận.

Theo Chu kháng Lý

Năm 896, Lý Khắc Dụng cử con nuôi là Lý Tồn Tín đem binh giao tranh với Chu Toàn Trung ở Vận châu. Tồn Tín đóng quân ở huyện Sằn, để quân quấy phá cướp bóc dân chúng, La Hoằng Tín rất bất bằng. Chu Toàn Trung sai sứ nhắn với ông: :Thái Nguyên tới được Hà Sóc, khi mà trở về sẽ tính đến chỗ của ông đó. Lý Khắc Dụng sai sứ đến Biện Châu gặp Chu Toàn Trung xin tha cho Lạc Lạc. Toàn Trung tương kế tựu kế, bèn sai người đưa Lạc Lạc đến Ngụy châu, Hoằng Tín sai giết đi. Từ thời điểm này, La Hoằng Tín ngả theo Chu Toàn Trung chống lại Lý Khắc Dụng. Do Ngụy Bác cản trở, Thái Nguyên không thể cứu anh em họ Chu được nữa, dẫn đến hai trân ở đất Tề nhanh chóng lọt vào tay Chu Toàn Trung vào mùa xuân năm 897.

Tháng 6 năm 896, Thái Nguyên lại đánh Ngụy Bác, phá hơn 10 thành Thành An, Hoàn Thủy, Lâm Chương,... Tháng 10, quân Hà Đông đánh bại quân Ngụy Bác ở Bạch Long đàm, tiến đánh Quan Âm môn, quân Tuyên Vũ đến cứu, đôi bên bãi binh trở về. Chu Toàn Trung đối với La Hoằng Tín luôn tìm cách lấy lòng, gọi ông là lục huynh, dùng hậu lễ mà tiếp đãi. Do đó Hoằng Tín thần phục nước Lương. Vào năm 898, ông gửi quân hỗ trợ Chu Toàn Trung tiến công ba châu Hình, Minh, Từ thuộc quyền quản lý của Thái Nguyên, liên quân giành được chiến thắng, thu được ba châu. Từ đó nước Tấn ngày càng suy yếu hơn.

Về cuối đời La Hoằng Tín được phong chức Kiểm giáo thái sư, Thị trung, Lâm Thanh vương. Tháng 10 năm 898 ông qua đời, hưởng thọ 63 tuổi. Quân trung ủng hộ người con trai trưởng của ông là La Thiệu Uy lên nắm quyền chỉ huy. Đường Chiêu Tông truy phong cho La Hoằng Tín tước Bắc Bình vương, thụy là Trang Túc.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**La Hoằng Tín** (chữ Hán: 羅弘信, bính âm: Luo Hongxin, 836 - 898), tên tự là **Đức Phu** (德孚), là Tiết độ sứ Ngụy Bác dưới thời nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, cai
**Cuộc khủng hoảng tín dụng Hoa Kỳ** (tiếng Anh: _Savings and loan crisis_) là sự sụp đổ hàng loạt của các quỹ tín dụng ở Hoa Kỳ trong nửa cuối thập niên 1980. Những quỹ
**Hoàng Tín **hay **Huỳnh Tín** (黄信), bính âm **Huang Xin** là một nhân vật hư cấu trong tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa _Thủy Hử_ của tác giả Thi Nại Am. Hoàng Tín xếp thứ
**Thẩm Hoàng Tín** (1909–1991) là một dược sĩ và chính khách Việt Nam. Ông từng giữ chức Thị trưởng Hà Nội từ tháng 2 năm 1950 đến tháng 8 năm 1952 dưới chính thể Quốc
**Biển Đức XVI** (cách phiên âm tiếng Việt khác là _Bênêđictô XVI_ hay _Bênêđitô_, xuất phát từ Latinh: _Benedictus_; tên khai sinh là **Joseph Aloisius Ratzinger**; 16 tháng 4 năm 1927 – 31 tháng 12
**Nam Phương Hoàng hậu** (chữ Hán: 南芳皇后; 14 tháng 11 năm 1913 – 15 tháng 9 năm 1963) là hoàng hậu của Hoàng đế Bảo Đại thuộc triều đại nhà Nguyễn, đồng thời là hoàng
Bong bóng nhà ở vỡ làm nhiều người vay tiền ngân hàng đầu tư nhà không trả được nợ dẫn tới bị tịch biên nhà thế chấp. Nhưng giá nhà xuống khiến cho tài sản
**Giáo hoàng Piô XII** (Tiếng Latinh: _Pius PP. XII_, Tiếng Ý: _Pio XII_, tên khai sinh là **Eugenio Maria Giuseppe Giovanni Pacelli**, 2 tháng 6 năm 1876 – 9 tháng 10 năm 1958) là vị
**Giáo hoàng Phaolô III** (Tiếng Latinh: **Paulus III**, Tiếng Ý: _Paolo III_) (29 tháng 2 năm 1468 – 10 tháng 11 năm 1549) là vị Giáo hoàng thứ 220 của Giáo hội Công giáo Rôma.
nhỏ|phải|Tượng thờ Quốc mẫu Âu Cơ tại Đền Hùng trong Công viên Tao Đàn nhỏ|phải|Ban thờ Tam Tòa Thánh mẫu trong Phật điện của Tu viện Vĩnh Nghiêm thuộc Quận 12 Điện thờ [[Liễu Hạnh
**Lịch sử của chế độ Giáo hoàng** là một lịch sử lâu dài kéo dài trong suốt 2000 năm với rất nhiều sự kiện và biến động. Giáo hội Công giáo nhìn nhận Giáo hoàng
**Giáo hoàng Lêôn I** hay **Lêôn Cả** (Latinh: _Leo I_) là giáo hoàng thứ 45 của Giáo hội Công giáo Rôma, kế vị giáo hoàng Xíttô III. Ông là một trong những vị Giáo hoàng
**Zeno** hay **Zenon** (; ; ) (425 – 491), tên thật là **Tarasis**, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 474 tới 475 và một lần nữa từ 476 tới 491. Các cuộc nổi
**Friedrich III của Đức** ( _Prinz von Preußen_; 18 tháng 10 năm 1831 – 15 tháng 6 năm 1888) là Hoàng đế Đức và là Vua của Phổ trong khoảng ba tháng (99 ngày) từ
**Friedrich Wilhelm Viktor Abert von Hohenzollern, Wilhelm II** của Phổ và Đức, (27 tháng 1 năm 1859 – 4 tháng 6 năm 1941) là vị Hoàng đế (_Kaiser_) cuối cùng của Đế quốc Đức, đồng
**Lã hậu** (chữ Hán: 呂后, 241 – 180 TCN), có âm khác **Lữ hậu**, thường gọi **Lã Thái hậu** (呂太后) hay **Hán Cao hậu** (漢高后), là vị Hoàng hậu duy nhất của Hán Cao Tổ
**Thần Vũ Vương** (trị vì 839, mất 839) là quốc vương thứ 45 của Tân La. Thời gian cai trị của ông là ngắn nhất trong lịch sử vương quốc, chỉ kéo dài từ tháng
**Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝定景皇后; ; 28 tháng 1 năm 1868 – 22 tháng 2 năm 1913), còn gọi là **Thanh Đức Tông Hoàng hậu** (清德宗皇后), **Long Dụ Hoàng hậu** (隆裕皇后) hay
**Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝賢纯皇后, ; 28 tháng 3, năm 1712 - 8 tháng 4, năm 1748), là nguyên phối Hoàng hậu của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. Xuất thân vọng
thumb|Bản đồ đế quốc La Mã Thần Thánh dưới triều Hoàng đế [[Karl IV của Thánh chế La Mã|Karl IV]] **Đế quốc La Mã Thần Thánh** (tiếng Latinh: _Sacrum Romanum Imperium_; tiếng Đức: _Heiliges Römisches
:_Về một bộ lạc người bản thổ Mỹ, xem Mohave._ **Hoang mạc Mojave**, người địa phương thường gọi là **High Desert** (có nghĩa là Hoang mạc trên cao), chiếm một phần lớn vùng đông nam
**Hoàng Đạo Thúy** (1900–1994) là một nhà cách mạng và nhà hoạt động văn hóa xã hội Việt Nam. Ông từng là thủ lĩnh Phong trào Hướng đạo Việt Nam tại khu vực Bắc Kỳ
**Cuộc khủng hoảng tài chính 2007–2008** (tiếng Anh: _2007–2008 financial crisis_, hay _Global Economic Crisis_ (GEC)) là một cuộc khủng hoảng diễn ra vào các năm 2007, 2008, bao gồm sự đổ vỡ hàng loạt
**Maximilian II** (31 tháng 7 năm 1527 – 12 tháng 10 năm 1576) là Hoàng đế La Mã Thần thánh từ năm 1564 cho đến khi ông qua đời năm 1576. Là thành viên của
**Tỉnh Ai Cập của La Mã** (Tiếng La Tinh: _Aegyptus_, [ɛːɡyptos]) được thành lập vào năm 30 TCN sau khi Octavian (sau này là hoàng đế tương lai Augustus) đánh bại Mark Antony cùng người
Sự thay đổi về cương thổ của Cộng hòa La Mã, Đế quốc La Mã và Đế quốc Đông La Mã qua từng giai đoạn phát triển. Hình động, click vào để xem sự thay
**Đại Thắng Minh Hoàng hậu** (chữ Hán: 大勝明皇后; 952 - 1000), dã sử xưng gọi **Dương Vân Nga** (楊雲娥), là Hoàng hậu của 2 vị Hoàng đế thời kỳ đầu lập quốc trong Lịch sử
**Piô VII** là vị giáo hoàng thứ 251 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng vào ngày 14 tháng 3 năm 1800 và ở
**Hoang tưởng** (tiếng Anh: _delusion_) là một niềm tin vững chắc và cố định dựa trên những cơ sở không đầy đủ mà không dùng lý lẽ chứng minh được hoặc là bằng chứng trái
thumb|[[Lăng Hoàng Đế|Miếu Hiên Viên thờ Hoàng Đế ở Hoàng Lăng, Thiểm Tây]] thumb|Miếu [[Thành hoàng ở Mã Công, Đài Loan]] thumb|Điện thờ trong Ngũ Công Tự ở [[Hải Khẩu, Hải Nam]] **Tín ngưỡng dân
**Thắt chặt tín dụng** (còn được gọi là **siết chặt tín dụng** hoặc **khủng hoảng tín dụng**) là sự giảm sút đột ngột về khả năng vốn có của các khoản vay (hoặc tín dụng)
**Hoang tưởng ký sinh trùng** (Delusional Parasitosis) là một loại bệnh tâm thần, người bệnh có niềm tin dai dẳng rằng họ bị nhiễm các mầm bệnh sống hoặc mầm bệnh không sống như ký
còn gọi là hay là tước hiệu của người được tôn là Hoàng đế ở Nhật Bản. Nhiều sách báo ở Việt Nam gọi là _Nhật Hoàng_ (日皇), giới truyền thông Anh ngữ gọi người
hay còn gọi là là Hoàng hậu theo thần thoại của Thiên hoàng Chūai, người đã giữ nhiệm vụ nhiếp chính và lãnh đạo thực tế từ khi chồng bà chết năm 201 đến khi
**Karl V** (tiếng Tây Ban Nha: _Carlos_; tiếng Đức: _Karl_; tiếng Hà Lan: _Karel_; tiếng Ý: _Carlo_) (24 tháng 2 năm 1500 – 21 tháng 9 năm 1558) là người đã cai trị cả Đế
**Đế quốc La Mã** hay **Đế quốc Rôma** ( ; ) là giai đoạn tiếp nối Cộng hòa La Mã cổ đại. Chính thể Đế chế La Mã, được cai trị bởi các quân chủ
**Hiếu Cảnh Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝景王皇后; 178 - 126 TCN), thường gọi **Hiếu Cảnh Thái hậu** (孝景太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Cảnh Đế Lưu Khải. Bà là sinh mẫu của
**Julianus** (,; 331/332  – 26 tháng 6 năm 363), có hỗn danh là **Julianus Kẻ bội giáo**, hoặc là **Julianus Nhà hiền triết**, là một hoàng đế La Mã, trị vì từ năm 355 cho
**Đế quốc Tây La Mã** là phần đất phía tây của Đế quốc La Mã cổ đại, từ khi Hoàng đế Diocletianus phân chia Đế chế trong năm 285; nửa còn lại của Đế quốc
**Linh Tư Hà hoàng hậu** (chữ Hán: 靈思何皇后, ? - 30 tháng 9 năm 189), còn gọi **Đông Hán Hà thái hậu** (東漢何太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Linh Đế Lưu Hoằng, sinh
**Hoàng Thùy** (tên thật **Hoàng Thị Thùy**, sinh ngày 15 tháng 3 năm 1992) là một Á hậu, siêu mẫu và giám khảo chương trình người Việt Nam, từng đạt giải quán quân Vietnam's Next
là vị Thiên hoàng thứ 38 của Nhật Bản theo danh sách thiên hoàng truyền thống. Thời đại của ông bắt đầu từ năm 668 đến khi ông qua đời vào năm 672, nhưng trên
**Hiếu Tiết Liệt hoàng hậu** (chữ Hán: 孝節烈皇后; 10 tháng 5 năm 1611 - 24 tháng 4 năm 1644), là Hoàng hậu của Minh Tư Tông Sùng Trinh Đế, vị hoàng đế cuối cùng của
thumb|upright|[[Dawit II|Lebna Dengel, _nəgusä nägäst_ (hoàng đế) của Ethiopia và thành viên của Vương triều Solomon.]] **Hoàng đế Ethiopia** (, nəgusä nägäst, "Vua của các vị vua"), còn được gọi là **atse** (, "hoàng đế"),
Tín ngưỡng Thành hoàng Việt Nam do và ấn hành. Tín ngưỡng Thành hoàng Việt Nam là một tín ngưỡng phổ biến cả nước từ Bắc chí Nam, hay nói cho đúng hơn từ Bắc
**Hoàng thành Thăng Long** (chữ Hán: 昇龍皇城; Hán-Việt: Thăng Long Hoàng thành) là quần thể di tích gắn với lịch sử kinh thành Thăng Long - Đông Kinh và tỉnh thành Hà Nội bắt đầu
**Lý Chiêu Hoàng** (chữ Hán: 李昭皇; 1218 - 1278), **Chiêu Hoàng Đế** (昭皇帝) hay **Chiêu Thánh Hoàng hậu** (昭聖皇后) là Nữ Hoàng của Đại Việt, cũng là Hoàng Đế cuối cùng của triều đại nhà
phải|Cỗ kiệu rước bàn thờ thánh ở miền Bắc vào cuối [[thế kỷ 19]] thumb|Người dân tại đền thờ [[Trần Nhân Tông, Huế]] thumb|Cổng vào Dinh Bà Thủy Long Thánh Mẫu, tại [[Dương Đông]] thumb|Bàn
**Hoàng Văn Thái** (1915 – 1986), tên khai sinh là **Hoàng Văn Xiêm** là Đại tướng Quân đội nhân dân Việt Nam và là một trong những tướng lĩnh có ảnh hưởng quan trọng trong
**Khủng hoảng ngành chế tạo ô tô 2008-2010 ở Hoa Kỳ** đã gây ra tình trạng các hãng chế tạo ô tô ở Hoa Kỳ rơi vào khó khăn kinh doanh do không tiêu thụ