✨Kitô hữu

Kitô hữu

thumb|Tranh vẽ mô tả người [[nông dân Kitô hữu đọc kinh cầu nguyện]] Kitô hữu hay Cơ Đốc nhân (tiếng Anh: Christian), cũng gọi là tín hữu, là người theo niềm tin giáo lý của Kitô giáo, một tôn giáo thuộc các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham, với đức tin rằng Chúa Giê-su Ki-tô là Con Thiên Chúa, ngài sống cuộc đời trọn vẹn, không hề phạm tội và đầy dẫy tình yêu thương. Ngài chịu đóng đinh trên thập tự giá, đến ngày thứ ba ngài sống lại từ kẻ chết, sau đó ngài về nước trời.

Do đó, Cơ Đốc Nhân nên được hiểu là người tiếp nhận Chúa Giê-su là Cứu Chúa của cuộc đời mình. Vì giá chuộc tội của chính bản thân người ấy đã được trả bằng cái chết, bằng huyết vô tội của Chúa Giê-su.

Thuật ngữ "Kitô hữu" bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp Koine Christós (Χριστός), một bản dịch thuật ngữ của tiếng Hebrew trong Kinh thánh sử dụng từ mashiach (Kinh thánh Hebrew: מָשִׁיחַ).

Tín hữu Cơ Đốc tin rằng Chúa Giê-su là con đường duy nhất dẫn đến sự cứu rỗi. Trong thư gởi tín hữu thành Ê-phê-sô, Sứ đồ Phao-lô viết, " Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện (Ê-phê-sô 2:8-9). Như vậy, việc lành được xem là kết quả tất yếu của nếp sống mới được soi dẫn bởi Lời Thiên Chúa.

Tín hữu Cơ Đốc xem đức tin của mình là thuộc độc thần giáo, xác tín rằng chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, ngoài Ngài không có thần linh nào khác. Theo đức tin Cơ Đốc, Thiên Chúa có Ba Ngôi: Chúa Cha (Nguồn của vũ trụ, Đấng Tể trị Vĩnh cửu); Chúa Con (Ngôi Lời, nhập thể thành người là Giê-su Nazareth); và Chúa Thánh Linh (Đấng thánh hóa, biện hộ).

Theo ước tính của một khảo sát năm 2011 của tổ chức điều tra dân số nhân khẩu học Pew Research Center, ngày nay có khoảng 2,2 tỉ tín hữu Cơ Đốc trên khắp thế giới vào năm 2010 phát triển từ 600 triệu tín đồ Cơ Đốc từ năm 1910, họ thống nhất với niềm tin rằng Chúa Giê-su có một ý nghĩa đặc biệt. Đại thể, cộng đồng Cơ Đốc giáo chia thành ba nhánh chính: Giáo hội Công giáo Rôma, Chính Thống giáo, và Kháng Cách.

Ngày nay, khoảng 37% trong số tất cả các Kitô hữu sống ở châu Mỹ, khoảng 26% tín đồ Kitô giáo sống ở châu Âu, 24% giáo dân sống ở vùng cận Sahara Châu Phi, khoảng 13% tín hữu sống ở Châu Á và Thái Bình Dương, và 1% người Kitô sống ở Trung Đông và Bắc Phi. luân lý, văn học, kinh doanh tài chính thương mại kinh tế, kiến trúc và hội họa, âm nhạc, sân khấu kịch nghệ và y học, công nghệ khoa học kỹ thuật, trong quá khứ lịch sử cho đến thời đại đương đại ngày nay.

Từ nguyên

thumb|[[Tuyên úy Cơ Đốc trong quân đội Mỹ]] thumb|[[Lính Mỹ đọc kinh thánh trong quân đội Hoa Kỳ]] Thuật từ Cơ Đốc nhân hoặc Kitô hữu có nguồn gốc từ một danh hiệu của Chúa Giê-su, Cơ Đốc hoặc Kitô (Christos), nghĩa là đấng chịu xức dầu để làm vua. Danh xưng này được tìm thấy trong Tân Ước, sách Công vụ Các Sứ đồ 11, 26: "Chính tại An-ti-ô-khi-a mà lần đầu tiên các môn đệ được gọi là Ki-tô hữu." (Hi văn hoặc , [http://www.blueletterbible.org/cgi-bin/strongs.pl?strongs=5546 Strong's G5546]). Thuật từ này được dùng để chỉ những người được xem là môn đồ của Chúa Cơ Đốc.

Cơ Đốc nhân nghĩa là người thuộc về Chúa Cơ Đốc, bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp Χριστός Khristós nghĩa là "Đấng chịu xức dầu", có nguồn gốc từ tiếng Hebrew Moshiach (tiếng Hebrew משיח, cũng được viết là "Messiah") nghĩa là Đấng Cứu thế. Tiếng Hebrew là ngôn ngữ duy nhất không sử dụng thuật từ Cơ Đốc nhân, nhưng thay thế thuật từ này bằng danh xưng người Nazareth (tiếng Hebrew:נוצרי Notzri), bởi vì Chúa Giê-su đến từ xứ Nazareth, vì vậy ngài thường được gọi là Giê-su người Nazareth (ישוע הנצרת, Yeshua Ha-Natzerat).

Trong Anh ngữ, Xian hoặc Xtian là hai thuật từ khác được dùng để gọi người theo Chúa Giê-su; tương tự, nhiều người dùng thuật từ Xmas thay thế cho Christmas; Mẫu tự X hoặc Xt là viết tắt cho "Christ" ("X" từ mẫu tự X (Chi) trong tiếng Hy Lạp, là mẫu tự đầu tiên của danh hiệu Χριστός (Christos) của Chúa Giê-su.

Thuật từ "Cơ Đốc nhân" được sử dụng trong các nhóm khác nhau, do đó có sự khác biệt đôi chút trong ý nghĩa của thuật từ đối với mỗi nhóm. Tín hữu thuộc Phong trào Tin Lành sử dụng thuật ngữ này theo một định nghĩa hẹp. Họ tin rằng Cơ Đốc nhân là người toàn tâm toàn ý theo Chúa Giê-su, đức tin của người ấy phải được thể hiện trong đời sống vâng phục và hết lòng tuân giữ các giáo huấn của Kinh Thánh.

Tín hữu Cơ Đốc thường gia nhập một trong số những cộng đồng các giáo hội gọi là giáo phái, mỗi giáo phái có những nét đặc thù trong đức tin, thần học và tổ chức. Các giáo phái chú trọng đến giáo nghi gồm có Chính Thống giáo, Giáo hội Công giáo Rôma và Công giáo phương Đông, Anh giáo và cộng đồng các giáo hội Luther. Những giáo phái khởi nguồn từ cuộc Cải cách Kháng Cách gồm có Trưởng Lão, Giám Lý, Moravia, Baptist..., với niềm xác tín rằng danh xưng Cơ Đốc nhân là niềm vinh dự cho những người tuân giữ mạng lịnh của Chúa Giê-su "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo" (Mc 8, 34). Đó là dấu chứng công khai họ là Cơ Đốc nhân, được thể hiện qua việc nhận lễ Báp têm trong danh của Cha, Con và Thánh Linh.

Lịch sử

Thiên niên kỷ thứ nhất

Từ năm 64 đến 313 CN, Cơ Đốc giáo bùng phát mạnh mẽ trong lãnh thổ Đế quốc La Mã bất kể những nỗ lực từ giới cầm quyền cố trấn áp tôn giáo mới này. Ký thuật đầu tiên về thuật từ Cơ Đốc nhân là của Tacitus, khi ông thuật lại sự kiện Nero qui trách nhiệm cho các "Cơ Đốc nhân" trong vụ hỏa hoạn lớn tàn phá thành La Mã năm 64. Khoảng năm 200, một nhà lãnh đạo Cơ Đốc giáo, Tertullian, đã tuyên bố, "Huyết của những người tử đạo là hạt giống [của Hội thánh]", khi ông nói về hiện tượng săn đuổi và bách hại các tín hữu Cơ Đốc. Năm 313, Chiếu chỉ Milan chính thức chấm dứt sự bách hại. Dưới thời trị vì của Hoàng đế Constantine, giáo hội giành được nhiều ảnh hưởng chính trị. Năm 390, Hoàng đế Theodosius I tuyên bố Cơ Đốc giáo là quốc giáo của Đế quốc La Mã (Codex Theodosianus). Từ đó giáo hội bắt đầu xây dựng hệ thống tăng lữ nhằm củng cố cấu trúc tổ chức của giáo hội trải qua nhiều thế kỷ.

Thời kỳ Trung Cổ

thumb|Tranh vẽ một [[hiệp sĩ Kitô giáo đang quỳ gối và nguyện cầu]] Tại Âu châu trong thời kỳ Trung Cổ, Giáo hội Công giáo Rôma đạt đến đỉnh cao sức mạnh trong giáo quyền và thế quyền. Giáo hội và các tổ chức của giáo hội không chỉ hoạt động tích cực nhằm truyền bá thông điệp và các giá trị Cơ Đốc giáo qua nỗ lực của những nhà truyền giáo, mà còn sử dụng ảnh hưởng thống trị của giáo hội tại Âu châu để trở nên một thế lực chính trị cạnh tranh với các vương quyền. Hầu hết người dân thời ấy đều tỏ ra sùng tín, nhiều người dâng hiến đất đai, tiền bạc và các hình thức sở hữu khác cho giáo hội. Thời ấy, Giáo hoàng là nhân vật hết sức quan trọng tại châu Âu.

Sự giàu có của giáo hội được biểu thị qua những công trình kiến trúc như các đại giáo đường, trong khi các tu viện trở nên những trung tâm nghiên cứu và học thuật, được xem là tiền thân của các viện đại học đương đại. Tu viện cũng là nơi người dân thường tìm đến để có được những chăm sóc y tế.

Đương đại

thumb|[[Giới trẻ thanh niên Kitô hữu cùng nhau đọc kinh cầu nguyện]] thumb|Các [[vận động viên thể thao Kitô hữu cùng đọc kinh cầu nguyện trước khi chơi bóng chày]] Ở phương Tây, cuộc Cải cách Kháng Cách mang đến cho cộng đồng Cơ Đốc giáo ý niệm về quyền tự do giải thích Kinh Thánh và các giá trị Cơ Đốc khác, cũng như bác bỏ tính phổ thông của hội thánh hữu hình. Trong khi Giáo hội Công giáo Rôma tin rằng giáo hội là thánh thiện, duy nhất, công giáo và tông truyền, thì tín hữu Kháng Cách xác tín rằng đặc điểm của hội thánh chung là vô hình, nghĩa là chỉ bao gồm những người được chuộc bởi huyết của Chúa Giê-su, và tên của họ được ghi trong "sách sự sống", ngụ ý một sự phân biệt rạch ròi giữa hội thánh vô hình và hội thánh hữu hình (các tổ chức giáo hội với những đặc điểm bất toàn của con người).

Phản ứng trước những áp lực cả từ bên trong (lòng sùng tín bị suy giảm và lãng quên), và từ bên ngoài (Phong trào Khai sáng gây tác hại đáng kể cho hội thánh) là nhân tố khởi phát các cuộc phục hưng tôn giáo phát triển mạnh mẽ tại những khu định cư ở Bắc Mỹ - được gọi là cuộc Đại Tỉnh thức – đã tạo những dấu ấn sâu đậm trên đức tin và sống đạo của các giáo hội thuộc cộng đồng Kháng Cách tại Bắc Mỹ cho đến ngày nay.

Phong trào truyền giáo bùng phát mạnh mẽ trong tất cả các giáo phái thuộc Cơ Đốc giáo nhằm thực thi sứ mạng Chúa Giê-su phó thác cho hội thánh, được ký thuật trong Phúc âm Mátthêu 28, 19-20 ("Vậy, anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế."), đã giúp kiến tạo thế giới đương đại với sự hiện diện của tín hữu Cơ Đốc ở khắp mọi nơi trên đất.

Bên trong Cơ Đốc giáo nảy sinh những cộng đồng có các thành viên tham gia tích cực vào hiện tượng "nói tiên tri", và thực hành chữa bệnh bằng phép lạ (cùng những hiện tượng khác mà họ gọi là "ân tứ thuộc linh"), như đã ký thuật trong Kinh Thánh về thời kỳ hội thánh tiên khởi (sách Công vụ các Sứ đồ), và những khả năng đặc biệt của các nhà tiên tri trong Cựu Ước. Những người này được xem là thuộc Phong trào Ân tứ.

Những người bất đồng cho rằng các ân tứ này (được thể hiện bởi sự vận hành của Chúa Thánh Linh) đã chấm dứt kể từ khi vị sứ đồ cuối cùng từ trần, trong khi nhiều người khác tin rằng sự ban cho ân tứ vẫn tiếp tục nhưng chỉ xảy ra trong những tình huống đặc biệt, và chỉ ra những lạm dụng thường xuyên xảy ra trong vòng những người tự nhận mình "có ân tứ" như là minh chứng cho lập luận của họ.

Bách hại

Theo dòng lịch sử của hội thánh, tín hữu Cơ Đốc thường xuyên chịu đựng nhiều sự bách hại. Ngay từ khi hội thánh mới thành lập, Stephen (Tê-pha-nô hoặc Ê-tiên), Phao-lô và mười trong số mười hai sứ đồ (theo những ký thuật ngoài Kinh Thánh) có tên trong số những người tử đạo đầu tiên. Cơ Đốc giáo bị xem là bất hợp pháp tại Đế quốc La Mã cho đến thế kỷ thứ ba, các hoàng đế La Mã buộc mọi thần dân (ngoại trừ người Do Thái) phải tham dự các nghi lễ sùng bái hoàng đế, và hiến dâng sinh tế cho các thần linh La Mã cũng như cho Hoàng đế. Đây là điều đi ngược lại đức tin độc thần của Cơ Đốc giáo. Khước từ tham gia cúng tế đồng nghĩa với tội phản quốc, và án phạt dành cho hành động này là tử hình. Một sự bách hại kéo dài có tổ chức lên đến đỉnh điểm trong thời trị vì của Diocletian và chỉ chấm dứt khi Chiếu chỉ Milan (năm 313) được ban hành.

Nhân khẩu học

Vào đầu thế kỷ XXI, Cơ đốc giáo có khoảng 2,4 tỷ tín đồ. Đức tin Kitô giáo chiếm khoảng một phần ba dân số thế giới và là tôn giáo lớn nhất trên thế giới. Kitô hữu đã chiếm khoảng 33 phần trăm dân số thế giới trong khoảng 100 năm. Nhánh Kitô giáo lớn nhất là Giáo hội Công giáo Rôma, với 1,17 tỷ giáo dân, chiếm một nửa trong số tất cả Kitô hữu.

Kitô giáo vẫn là tôn giáo chiếm ưu thế trong thế giới phương Tây, nơi có 70% tổng dân số là Kitô hữu.

Ki tô giáo đang phát triển ở Châu Phi, Châu Á, Châu Mỹ Latinh, Thế giới Hồi giáo, và Châu Úc.

thumb|center|Phần trăm Kitô hữu trên toàn thế giới, 2011

Kinh tế xã hội

Theo một nghiên cứu từ năm 2015, Kitô hữu chiếm nhiều tài sản lớn nhất (55% tổng số tài sản thế giới), theo sau là người Hồi giáo (5,8%), Hindu (3,3%) và người Do Thái (1,1%). Theo nghiên cứu tương tự, người ta thấy rằng những người vô tôn giáo hay các tôn giáo khác chiếm khoảng 34,8% tổng tài sản toàn cầu thế giới. Một nghiên cứu do công ty nghiên cứu sự giàu có thế giới New World Wealth đã thực hiện cho thấy 56,2% trong số 13,1 triệu đại gia triệu phú trên thế giới là người Kitô hữu.

Một nghiên cứu của Trung tâm Pew về tôn giáo và giáo dục trên toàn thế giới vào năm 2016 cho thấy các Kitô hữu xếp hạng là nhóm tôn giáo được giáo dục học hành nhiều thứ hai trên khắp thế giới chỉ sau người Do Thái với số năm trung bình là 9,3 năm đi học cắp sách đến nhà trường, và số năm học tập cao nhất trong số các tín đồ Kitô hữu được phát hiện thấy ra rằng là ở nước Đức (13.6), và Kitô hữu ở Georgia (57%). Theo 100 năm của Giải thưởng Nobel, việc rà soát các giải thưởng Nobel trong năm 1901 và 2000 cho thấy (65,4%) những người đoạt giải Nobel đã xác định là tín đồ Kitô giáo dưới nhiều hình thức khác nhau như là tôn giáo ưu tiên của họ.

Các Kitô hữu phương Đông (đặc biệt là Kitô giáo Nestorian) đã góp phần vào nền văn minh Hồi giáo Ả Rập trong suốt thời kỳ Ummayad và Abbasid bằng cách dịch các tác phẩm của các triết gia Hy Lạp sang Syriac và sau đó là tiếng Ả Rập. Họ cũng xuất sắc tài giỏi trong lạnh vực triết học, khoa học, thần học và y học.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|[[Thánh Phaolô|Sứ Đồ Phaolô vị thánh nổi tiếng trong việc săn đuổi và bách hại những Kitô hữu ban đầu mà hầu hết là người Do Thái]] **Kitô hữu Do Thái** là những người Do
thumb|Tranh vẽ mô tả người [[nông dân Kitô hữu đọc kinh cầu nguyện]] **Kitô hữu** hay **Cơ Đốc nhân** (tiếng Anh: _Christian_), cũng gọi là **tín hữu**, là người theo niềm tin giáo lý của
Theo 100 Years of Nobel Prize (2005), Kitô hữu đã nhận được tổng cộng là 423 giải Nobel. Kitô hữu nhận được 78.3 % tổng số Giải Nobel Hòa bình, 72.5% tổng số Giải Nobel
**Kitô giáo** hay **Cơ Đốc giáo**, ở Việt Nam đôi khi gọi là **đạo Thiên Chúa** hay **Thiên Chúa giáo**, là một tôn giáo truyền thống Abraham độc thần, đặt nền tảng vào cuộc đời,
nhỏ|Chữ graffiti chống Kitô giáo tại [[Viên, Áo với nội dung ()]] **Tâm lý chống Kitô giáo** là nguyên nhân gây ra sự căm ghét, phân biệt đối xử, thành kiến và nỗi sợ đối
**Vai trò của Kitô giáo với nền văn minh nhân loại** rất lớn và phức tạp. Nó đan xen với lịch sử và sự hình thành của xã hội phương Tây, và nó đã đóng
nhỏ|250x250px|Các cử tri của đảng [[Liên minh Dân chủ Kitô giáo Đức mít tinh vào năm 1990 tại thành phố Dessau, CHDC Đức]] **Dân chủ Kitô giáo** là một hệ tư tưởng chính trị xuất
**Hệ phái Kitô giáo** là một tổ chức tôn giáo riêng biệt trong Kitô giáo, được xác định bởi các đặc điểm như tên, tổ chức, lãnh đạo và học thuyết (giáo lý). Thuật ngữ
**Văn hóa Kitô giáo** là tập tục văn hóa phổ biến trong Kitô giáo. Với sự mở rộng nhanh chóng của Kitô giáo sang châu Âu, Syria, Lưỡng Hà, Tiểu Á, Ai Cập, Ethiopia và
nhỏ|Minh họa thời trung cổ của các _giáo hội_ từ Hortus deliciarum của Herrad of Landsberg (thế kỷ 12) **Giáo hội Kitô giáo** là một thuật ngữ giáo hội thường được người theo Kháng Cách
**Các giá trị Kitô giáo** được hiểu là những giá trị quan phát xuất từ giáo huấn của Chúa Giêsu Kitô. Cách hiểu, định nghĩa và áp dụng thuật ngữ này còn tùy thuộc vào
Vào thuở Kitô giáo sơ khai, một tín hữu có thể vẽ một cung trên đất khi gặp một người khác, nếu chia sẻ cùng niềm tin, người này sẽ vẽ tiếp một cung nữa
**Lịch sử Kitô giáo** liên quan đến Kitô giáo và Giáo hội Kitô giáo với các giáo phái khác nhau, từ thế kỷ 1 đến nay. Công giáo La Mã và Chính thống giáo Đông
phải|nhỏ|Cơ đốc giáo lan truyền từ Tây Á đến Trung Quốc từ thế kỷ 1 đến thế kỷ 14 sau Công nguyên và xa hơn đến Đông Á từ thế kỷ 16 với Châu Âu
**Chủ nghĩa vô thần Kitô giáo** là một trường phái thần học trong đó phủ nhận sự hiện hữu của một Thiên Chúa tồn tại độc lập với con người và chỉ tin vào sự
**Liên đoàn Kitô giáo Triều Tiên** là một tổ chức Tin Lành ở Bắc Triều Tiên được thành lập vào năm 1946. Liên đoàn có trụ sở tại thủ đô Bình Nhưỡng. Tổng thư ký
right|thumb|Bức tranh _Đức Kitô và Đức Phật_ của họa sĩ [[Paul Ranson|Paul-Élie Ranson (1880)]] Từng có sự liên hệ giữa Phật giáo và thế giới Địa Trung Hải vào thời kỳ tiền Kitô giáo. Có
**_Thư thứ nhất gửi tín hữu Thêxalônica_** là bức thư do Sứ đồ Phaolô viết và đã được xếp vào danh sách các quyển của Tân Ước của Kitô giáo. ## Thời gian và bối
**_Thư gửi tín hữu Do Thái_** được xếp vào danh sách các quyển sách của Tân Ước. ## Thời gian Thư này được phỏng đoán viết vào khoảng mấy năm trước khi thành Jerusalem bị
**Thần học Kitô giáo** là lĩnh vực nghiên cứu về đức tin và thực hành Kitô giáo. Nền thần học này phân tích, phản biện dựa vào các văn bản Kinh Thánh là Cựu Ước
nhỏ|250x250px|[[Vương cung thánh đường Thánh Phêrô ở thành phố Vatican, công trình nhà thờ lớn nhất thế giới hiện nay.]] **Kitô giáo Tây phương** bao gồm Giáo hội Latinh thuộc Công giáo Rôma và các
nhỏ|phải|Đền thờ của Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của [[Giê-su|Chúa Giêsu Kitô tại Quảng trường Đền thờ, thành phố Salt Lake, tiểu bang Utah, Hoa Kỳ]] nhỏ|[[Quảng trường Đền thờ, ảnh khoảng năm
**Cứu rỗi**, trong Kitô giáo, là "giải cứu một linh hồn ra khỏi tội lỗi và hậu quả của nó, bao gồm cái chết và xa lìa Thiên Chúa," thông qua sự chết và phục
nhỏ|phải|Các hội viên của Phong trào Thánh hữu Ngày sau nhỏ|phải|Nhóm tín nhân Mặc Môn đang biểu dương với tên gọi Đội quân Moroni **Phong trào Thánh hữu Ngày sau** (_Latter Day Saint movement_) còn
**Đức tin Cơ Đốc** hoặc **Đức tin trong Kitô giáo** là niềm xác tín vào sự hiện hữu của Thiên Chúa, đấng sáng tạo vũ trụ, và niềm tin vào ân điển cứu chuộc của
Dưới đây là danh sách các giáo phái của Kitô giáo xếp theo số lượng tín hữu. Theo sách "Status of Global Mission, 2008" của Trường thần học Gordon-Conwell (có trụ sở tại South Hamilton,

nhỏ|Maggie Gobran năm 2019 **Maggie Gobran,** còn gọi là **Mama Maggie,** là một phụ nữ người Copt và là một Kitô hữu, là người sáng lập và giám đốc điều hành của tổ
nhỏ|Cửa sổ [[kính màu ghép miêu tả Chúa Kitô Vua tại Nhà thờ Thánh Joseph, Tipperary, Cộng hòa Ireland]] **Ba chức vụ** hay **ba chức năng** của Đức Jesu Kitô () là một học thuyết
**Chính trị thiên hữu**, gọi tắt **trung hữu**, là danh từ dùng để miêu tả hoặc biểu thị lập trường chính trị của cá nhân, chính đảng hoặc tổ chức, trong quang phổ chính trị,
nhỏ|Các tín đồ Triết học Kitô giáo|255x255px **Triết học Kitô giáo** là một sự phát triển của một hệ thống triết học đặc trưng của truyền thống Kitô giáo. ## Triết học Hy Lạp và
nhỏ|610x610px|Hình tượng Chúa Kitô Vua được phác họa trong tác phẩm "[[Ghent Altarpiece" của họa sĩ Jan van Eyck tại Nhà thờ chính tòa Thánh Bavo, giáo phận Gent.]] **Chúa Kitô Vua** là một tước
**Âm nhạc Kitô giáo** là các thể loại nhạc diễn tả niềm tin cá nhân hoặc cộng đoàn trong cuộc sống và đức tin Kitô giáo (Cơ Đốc giáo), được hình thành để phục vụ
**Cơ đốc giáo tại Việt Nam** hiện gồm có Giáo hội Công giáo và các Hội thánh Tin Lành. Kitô giáo được truyền vào Việt Nam từ thế kỷ 16 thông qua các thừa sai
Kitô giáo có quan niệm hữu thần là các thuyết: thuyết về sự sáng tạo của Thiên chúa, thuyết về tội tổ tông, thuyết về sự cứu rỗi, thuyết về sự ra đời của chúa
thumb|[[Luca Signorelli mô tả gương mặt của kẻ Phản Ki-tô, tranh vẽ năm 1501 trong Nhà thờ chính tòa Orvieto]] thumb|Antichristchi tiết trên bích họa tại [[Tu viện Osogovo ở Cộng hòa Macedonia. viết "Tất
thumb Theo quan niệm Kitô giáo, thiên thần là những tạo vật vô hình do Thiên Chúa tạo ra để phục vụ cho các công việc của Thiên Chúa. Vào thời Trung Cổ, đã có
**_Thư gửi tín hữu Côlôxê_** là một trong những lá thư viết bởi Sứ đồ Phaolô, được xếp vào những sách của Tân Ước. Côlôxê (Colossae) là một thành phố thuộc miền Tiểu Á, cách
Các quốc hội ở châu Âu với các Đảng, mà được liệt kê theo chủ nghĩa dân túy cánh hữu (tháng 12/2017).
_Có đại diện tại Quốc hội_
_Tham gia vào chính phủ_
**Chính trị cánh hữu**, còn gọi là **chính trị hữu khuynh** hay **chính trị thiên hữu**, đề cập đến các quan điểm hoặc lập trường có khuynh hướng chính trị-xã hội trái ngược với cánh
nhỏ|phải|Biểu tượng của Satan nhỏ|phải|Tranh vẽ hiện đại về Tà lễ **Thuyết hữu thần Satan** (_Theistic Satanism_) còn được gọi là **tôn giáo thờ Satan** là một thuật ngữ chung để chỉ các nhóm tôn
**Thư thứ nhất gởi cho các tín hữu tại Côrintô** (Cô-rinh-tô) là một sách trong Tân Ước. Thư Côrintô thứ nhất là bức thư mà Sứ đồ Phao-lô và Sosthenes gởi cho các Cơ-đốc nhân
**Thư gởi các tín hữu tại Ê-phê-sô** được William Barclay mô tả là "Nữ hoàng của các Thư Tín". Đây là một sách của Kinh Thánh thuộc Tân Ước. Sứ đồ Phaolô người Tarsus được
**Giáo hội Công giáo**, gọi đầy đủ là **Giáo hội Công giáo Rôma**, là giáo hội Kitô giáo được hiệp thông hoàn toàn với vị giám mục giáo phận Rôma, hiện tại là Giáo hoàng
**Phaolô thành Tarsus** (còn gọi là **Sao-lơ hoặc Saolê** theo chữ **Saul**, **Paulus**, **Thánh Phaolô Tông đồ**, **Thánh Phaolô** hoặc **Sứ đồ Phaolô**, **Thánh Bảo-lộc** hay **Sao-lộc** (; ; ; khoảng 5 CN – khoảng
Biểu trưng Phong trào Đại kết. **Phong trào Đại kết** đề cập tới những nỗ lực của các Kitô hữu hoặc các truyền thống giáo hội khác nhau nhằm phát triển mối quan hệ gần
nhỏ|upright=1.3|Hai [[Mái vòm của Nhà thờ Mộ Thánh, Mái vòm bên trên Rotunda ở trên nóc có lá cờ Thập Tự Thánh Georges và mái vòm nhỏ hơn ở phía trên Catholicon, Tháp giáo đường
**Nazareth** (; , _Natzrat_ hoặc _Natzeret_; _an-Nāṣira_ or _an-Naseriyye_) là thủ phủ và thành phố lớn nhất vùng phía bắc Israel, được gọi là thủ đô Ả Rập của Israel vì dân số phần lớn
**Bốn đặc tính của Hội Thánh** trình bày bốn tính chất của Hội Thánh theo Giáo hội học Kitô giáo truyền thống, được biểu diễn trong tín biểu Nicêa của Công đồng Constantinopolis I như
Tranh "Victory over the Grave" (Chiến thắng sự chết), của Bernhard Plockhorst, thế kỷ 19 **Lễ Phục sinh** thường được xem là một trong những ngày lễ quan trọng nhất trong năm của người theo
nhỏ|phải|Miêu tả Chúa Thánh Thần trong hình chim bồ câu, kính màu tại [[Vương cung thánh đường Thánh Phêrô.]] nhỏ|phải|Trên tấm đá chìa khóa (bên trong mái vòm) của Nhà thờ Thánh Michael Tổng lãnh