✨Kim tự tháp Senusret I

Kim tự tháp Senusret I

Kim tự tháp Senusret I, hay "Senusret trông thấy hai vùng đất", là nơi chôn cất pharaon thứ nhì của Vương triều thứ 12, Senusret I. Cũng như cha mình, pharaon Amenemhat I, Senusret đã chọn Lisht là nơi an nghỉ cuối cùng, và nằm ở phía nam kim tự tháp Amenemhat I.

Kim tự tháp không còn giữ được hình dạng của nó như lúc ban đầu, chiều cao của nó là 61,25 mét, các cạnh dài 105 mét và độ dốc là 49°24'. Kim tự tháp Senusret đã sử dụng một phương pháp xây dựng chưa từng thấy ở những kim tự tháp khác tại Ai Cập; 4 bức tường được xây bằng những khối đá thô làm giảm kích thước của chúng. Phương pháp mới này đã đem lại sự vững chắc cho kim tự tháp của ông.

Lịch sử khảo cổ

Gaston Maspero đã thăm kim tự tháp này vào năm 1882 và đã xác định được chủ nhân của kim tự tháp thông qua những văn tự trên những vật thể khác nhau. Ngôi mộ kim tự tháp của Senusret I đã bị đột nhập từ thời cổ đại, và Maspero đã men theo đường hầm mà chúng đã đào để đi vào bên trong. Tại đây, ông phát hiện nhiều vật dụng được tùy táng theo nhà vua.

Gustave Jequier sau đó đã tái nghiên cứu kim tự tháp một lần nữa vào khoảng năm 1894 - 1895. Một nhóm các nhà nghiên cứu đến từ Viện bảo tàng Mỹ thuật Metropolitan đã tiếp tục công việc này trong khoảng năm 1906 - 1943. Cuối cùng là Diete Arnold, người đã cho khai quật kim tự tháp vào khoảng 1984 - 1987. Nhiều dấu tích của những công trình trong khu phức hợp lần lượt được phát hiện.

Phức hợp

nhỏ|Sơ đồ khu phức hợp của [[Senusret I, xung quanh là 9 kim tự tháp con|thế=|trái]]Ngôi đền thung lũng của Senusret I đã bị chôn vùi dưới cát nên không thể xác định được vị trí chính xác của nó. Một đường đắp cao nối dài từ đền thung lũng đến đền thờ trong phức hợp. Một dòng chữ chỉ ra rằng nó được xây dựng lần đầu tiên vào năm thứ 22 của Senusret I. Con đường này sau đó được xây dựng lại, thêm vào đó một mái che và nhiều khối đá vôi.

Cứ cách khoảng hơn 4,5 mét trên con đường này là một bức tượng lớn của Senusret trong hình hài của thần chết Osiris được đặt ở đó, vương miện đại diện cho 2 vùng Thượng - Hạ Ai Cập được đội xen kẽ trên các pho tượng. 8 trong số những bức tượng này vẫn còn nguyên vẹn và được lưu giữ tại 2 địa điểm: Bảo tàng Cairo và Bảo tàng Metropolitan.

Một cánh cửa ở gần cuối con đường dẫn đến nơi ở của các tư tế. Dọc hai bên đường đắp cao là bức tường bằng gạch bùn, tạo nên một hành lang phụ. Con đường đắp cao này nối với một hành lang có mái vòm dẫn đến một khoảng sân, bên trong có một bệ thờ hình vuông. Sân được lát đá vôi với 24 cột đá để đỡ mái và có một hệ thống thoát nước mưa, dọc hai bên là những phòng kho.

Có một khoảng sân lớn khác nằm ở phía bắc con đường đắp cao, nằm tách biệt ở bên ngoài đền thờ. Đây là nơi để các tư tế tẩy uế thân mình trước khi hành lễ, bên trong sân này có một hồ tắm với một cái ống dẫn nước bằng sứ.

Sân trong lại dẫn tới một nhà nguyện với 5 hốc được khoét trên tường để đặt các pho tượng. Tại đây người ta tìm thấy phần đế gắn liền với một phần chân tượng của nhà vua. Từ nhà nguyện, một hành lang sẽ đưa tới phòng dâng lễ vật cho Senusret. Căn phòng này có dựng một cây cột đá, mang hình dáng của cây cói. Một cánh cửa giả ở phía tây giáp với kim tự tháp chính, trước đó đặt một bàn thờ.

Lối vào kim tự tháp nằm ở phía bắc, được nối với một nhà nguyện nhỏ. Bên trong nhà nguyện này là một tấm bia của nhà vua cùng với một bàn đá. Miệng máng xối của nhà nguyện mang hình dáng một con sư tử, dùng để dẫn nước mưa ra khỏi mái nhà. Phần hành lang gần cửa vào kim tự tháp được lát đá vôi, phần còn lại được lát bằng đá granite. Thật không may, căn phòng này đã bị nhấn chìm trong nước (tương tự đối với phòng mộ của kim tự tháp Amenemhat I). Các nhà khảo cổ cũng không bao giờ có thể đặt chân vào được bên đó.

Phía đông nam kim tự tháp chính là một kim tự tháp vệ tinh, hiện đã sụp đổ hoàn toàn. Arnold nghĩ rằng, có thể bức tượng linh hồn ka và hộp đựng bình chứa nội tạng nằm ở bên dưới kim tự tháp này. Maspero đã tìm được một số vật dụng khi đi xuống hầm mộ bằng con đường của những tên trộm: nhiều rương gỗ, những cái hũ bằng thạch cao, vỏ dao găm bằng vàng và những mảnh vỡ của bình nội tạng.

Kim tự tháp con

Kim tự tháp chính và vệ tinh của Senusret được bao quanh bởi một bức tường, tách biệt với khu đền thờ. Một bức tường khác lớn bọc lấy cả khu phức hợp này. Có 9 kim tự tháp con khác (không tính kim tự tháp vệ tinh của Senusret) nằm giữa 2 bờ tường, thuộc về những thành viên trong hoàng gia của ông. Vài kim tự tháp trong số này có chứa các cỗ quan tài bằng đá và một số ít các vật dụng khác, nhưng không có dấu hiệu nào cho thấy chủ nhân của chúng được chôn tại đây.

Hình ảnh

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Kim tự tháp Senusret I**, hay _"Senusret trông thấy hai vùng đất"_, là nơi chôn cất pharaon thứ nhì của Vương triều thứ 12, Senusret I. Cũng như cha mình, pharaon Amenemhat I, Senusret đã
**Kim tự tháp Senusret III**, được xây dựng trong khu nghĩa trang hoàng gia Dahshur và nằm ở phía đông bắc Kim tự tháp Đỏ. Nó vượt xa cả về kích thước lẫn quy mô
Quang cảnh các kim tự tháp Giza nhìn từ cao nguyên phía nam khu tổ hợp. Từ trái sang phải: [[Kim tự tháp Menkaure, Kim tự tháp Khafre và Kim tự tháp Khufu. 3 kim
**Kim tự tháp Trắng** của Amenemhat II là kim tự tháp thứ 2 được xây dựng sau kim tự tháp Bent của pharaon Sneferu tại Dahshur, nằm ở phía đông kim tự tháp Đỏ. Nó
**Senusret I**, hay **Sesostris I**, là vị pharaon thứ nhì của Vương triều thứ 12 của Ai Cập. Ông trị vì từ năm 1971 TCN đến năm 1962 TCN, và là một trong những pharaon
**Khakhaure Senusret III** (thỉnh thoảng viết là **Senwosret III** hay **Sesostris III**) là pharaon của Ai Cập. Ông cai trị từ 1878 TCN đến 1839 TCN trong thời kì hùng cường và thịch vượng,, và
Khakeperre **Senusret II** là vị pharaon thứ tư thuộc Vương triều thứ Mười hai của Ai Cập. Ông cai trị từ năm 1897 TCN đến năm 1878 TCN. Kim tự tháp của ông đã được
**Amenemhat I**, hay **Amenemhet I**, là vị pharaon đầu tiên của Vương triều thứ 12 của Ai Cập cổ đại vào thời Trung Vương quốc. Amenemhat I là Tể tướng dưới triều vua Mentuhotep IV
:_Đối với những vương hậu cùng tên, xem thêm Khenemetneferhedjet II và Khenemetneferhedjet III_ **Khenemetneferhedjet I Weret** là một vương hậu sống vào thời kỳ Vương triều thứ 12 trong lịch sử Ai Cập cổ
**Lisht** hay **el-Lisht** là một ngôi làng nằm cách thủ đô Cairo, Ai Cập khoảng 65 km về phía nam, ngày nay là một phần của tỉnh Giza. Nơi này xưa kia là một khu nghĩa
:_Đối với những vương hậu cùng tên, xem thêm Neferu I và Neferu II._ **Neferu III** ("_Sắc đẹp_") là một công chúa, đồng thời là một vương hậu sống vào thời kỳ Vương triều thứ
**Khasekhemre Neferhotep I** là một vị pharaon Ai Cập thuộc giai đoạn giữa của vương triều thứ 13, ông đã trị vì trong giai đoạn nửa sau của thế kỷ thứ 18 TCN trong một
:_Đối với những vương hậu cùng tên, xem thêm Khenemetneferhedjet I và Khenemetneferhedjet III_ **Khenemetneferhedjet II Weret** là một vương hậu sống vào thời kỳ Vương triều thứ 12 trong lịch sử Ai Cập cổ
**Sahure** (có nghĩa là "Ngài là người gần gũi với Re") là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông còn là vị vua thứ hai của vương triều thứ năm và đã cai trị
**Nyuserre Ini** (còn được viết là **Neuserre Ini** hay **Niuserre Ini**, và đôi khi là **Nyuserra**; trong tiếng Hy Lạp tên của ông được gọi là Rathoris, _Ραθούρης_), là một pharaon của Ai Cập cổ
**Nubkhaure** **Amenemhat II** hay **Amenemhet II** là vị pharaon thứ ba của Vương triều thứ 12, Ai Cập cổ đại (cai trị từ 1929-1895 TCN). Ông là con của Senusret I và Nefru III. Người
**Unas** hoặc **Wenis**, hay còn được phát âm là **Unis** (cách viết theo tiếng Hy Lạp của **Oenas** hoặc **Onnos**), là một pharaon Ai Cập cổ đại, ông là vị vua thứ chín và cũng
**Thutmosis III** (sinh 1486 TCN, mất 4 tháng 3 năm 1425 TCN) còn gọi là **Thutmose** hoặc **Tuthmosis III**, (tên có nghĩa là "Con của Thoth") là vị pharaon thứ sáu của Vương triều thứ
thumb|upright=1.2|[[Queen Elizabeth II Great Court|Great Court được phát triển vào năm 2001 và bao quanh Phòng đọc.]] **Bảo tàng Anh** là một bảo tàng công cộng dành riêng cho lịch sử loài người, nghệ thuật
**Amenemhat III**, cũng còn được viết là **Amenemhet III** là một pharaon thuộc Vương triều thứ Mười hai của Ai Cập. Ông trị vì từ khoảng năm 1860 TCN tới khoảng năm 1814 TCN, niên
**Sopdet** (tiếng Ai Cập: _Spdt_, nghĩa là "Tam giác"), còn gọi là **Sothis** trong tiếng Hy Lạp cổ đại (Σῶθις; _Sôthĭs_), là nữ thần hiện thân của sao Thiên Lang, ngôi sao sáng nhất trên
**Heliopolis** là một thành phố lớn của Ai Cập cổ đại. Đây là thủ phủ của Heliopolite, nome thứ 13 của Hạ Ai Cập và là một trung tâm tôn giáo lớn, hiện bây giờ
**Deir el-Bahari** hoặc **Dayr al-Bahri** ( _al-Dayr al-Baḥrī_ "Tu viện phía Bắc") là một quần thể các đền thờ phục vụ cho tang lễ và tưởng niệm, và các lăng mộ nằm trên bờ tây