✨Kim tự tháp Pepi II

Kim tự tháp Pepi II

Kim tự tháp Pepi II, nằm xa về phía nam của Kim tự tháp Pepi I, thuộc khu nghĩa trang Saqqara, được xây dựng bởi pharaon Pepi II - vua thứ năm của Vương triều thứ 6 của trong lịch sử Ai Cập. Tên gọi cổ xưa được biết đến của kim tự tháp là "Cuộc sống vĩnh hằng của Pepi".

Một lần nữa, John Shae Perring là người đầu tiên khai quật khu phức hợp này vào những năm 1830; nối tiếp sau đó là Gaston Maspero, người đã bước vào bên trong cấu trúc vào năm 1881. Nhưng mãi đến năm 1926, Gustave Jequier mới tiến hành một cuộc khai quật có hệ thống, phương pháp. Jequier là người đã tái thiết lập lại cấu trúc khu phức hợp và những văn khắc trên kim tự tháp từ năm 1932 - 1935. Từ năm 1996 trở đi, nhiều cuộc khai quật vẫn tiếp tục được diễn ra bởi những nhóm khảo cổ đến từ Pháp.

Đền tang lễ

Hành lang từ đường đắp dẫn vào một khoảng sân rộng, được lát đá vôi của đền tang lễ. Những bức tường trong sân không được trang trí, tuy nhiên có 18 cây cột đá quartzit đỏ được đặt xung quanh chu vi của sân. Chỉ có 1 cột đá góc tây bắc là còn nguyên vẹn, trên đó khắc họa hình ảnh của nhà vua và thần Ra; những cây cột khác cũng mang hình ảnh của những vị thần nhưng lại bị vỡ. Xung quanh khoảng sân này lại là những căn phòng kho, tương tự ở đền thung lũng.

Ở hành lang nối giữa khoảng sân với một nhà nguyện, những bức tường bên trong được trang trí với những cảnh nhà vua đang dự lễ hội Sed, lễ tế thần Min và xét xử, hành hình đối với một tên thủ lĩnh người Libya. Bên trong sảnh thờ, những bức họa cho thấy quan lại và dân chúng đang dâng đủ mọi vật phẩm cho nhà vua. Một cánh cửa giả nằm ở bức tường phía tây, sát vách mặt đông của kim tự tháp chính.

Kim tự tháp Pepi II

nhỏ|249x249px|Cột đá có mang hình thần Ra và Pepi II

Kim tự tháp vệ tinh

Có một kim tự tháp vệ tinh nằm ở góc đông nam kim tự tháp chính, các cạnh dài 15,75 mét và dốc 63°. Bên trong có một hành lang chữ T và một phòng mộ nhỏ. Về sau bà lại kết hôn với chính Pepi II và có lẽ là mẹ của vua Merenre Nemtyemsaf II sau đó. Kim tự tháp của bà nằm ở hướng tây bắc của phức hợp Pepi II, sát bên trái là kim tự tháp của hoàng hậu Iput II.

Cổng vào đền thờ bên trong phức hợp nằm ở phía đông nam của tường bao, có 2 cột bút tháp bằng đá vôi ở cổng vào. Các bức phù điêu trên các đền đài chủ yếu mô tả những cảnh dâng lễ cho hoàng hậu. Hầm mộ bên dưới kim tự tháp vệ tinh chứa đầy những mảnh gốm.

Lối vào kim tự tháp chính nằm phía bắc, cũng có một hành lang và hệ thống cửa chặn nhưng đơn giản hơn của Pepi. Lối trang trí và những văn khắc cũng được bài trí y như của Pepi, và một cỗ quan tài bằng granite đỏ cùng với một rương đựng bình nội tạng cũng cùng vật liệu được đặt ở tường phía tây của phòng. Thi hài của Neith không được tìm thấy nhưng rất nhiều những mảnh vỡ thạch cao từ các bình hũ nằm vương trên nền đất. Một điều thú vị là một cỗ quan tài khác cũng bằng granite, được cho là của hoàng hậu Ankhesenpepi IV - một bà vợ thứ của Pepi II và là mẹ đẻ của một vị vua tên là Neferkare. Bà hậu này có thể đã tái giá sau khi Pepi II qua đời, tuy nhiên lại không tìm thấy một cỗ quan tài nào.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Kim tự tháp Pepi II**, nằm xa về phía nam của Kim tự tháp Pepi I, thuộc khu nghĩa trang Saqqara, được xây dựng bởi pharaon Pepi II - vua thứ năm của Vương triều
**Kim tự tháp Khendjer** là một kim tự tháp được xây dựng làm lăng mộ cho pharaoh Khendjer, người trị vị Ai Cập vào năm 1760 TCN.Kim tự tháp là một phần của một khu
**Pepi II** (còn là **Pepy II**; 2284 TCN – sau năm 2247 TCN, có thể hoặc là khoảng năm  2216 hoặc khoảng năm  2184 TCN Những dòng chữ khắc trên các khối đá cho biết
: _Đối với các vương hậu cùng tên, xem Ankhesenpepi I, Ankhesenpepi III và Ankhesenpepi IV_ **Ankhesenpepi II** hay **Ankhenesmeryre II**, là một vương hậu sống vào thời kỳ Vương triều thứ 6 trong lịch
: _Đối với vương hậu cùng tên, xem Iput I_ **Iput II** là một công chúa, đồng thời là vương hậu sống vào thời kỳ Vương triều thứ 6 trong lịch sử Ai Cập cổ
**Pepi I Meryre** (hay **Pepy I**) là vị pharaon thứ ba thuộc vương triều thứ Sáu của Ai Cập cổ đại. Triều đại của ông kéo dài hơn 40 năm bắt đầu từ giai đoạn khoảng
**Merenre Nemtyemsaf II** () là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông là vị vua thứ 6 và là một vị vua áp chót của vương triều thứ 6. Ông đã cai trị trong
**Nebhotepre Mentuhotep II** (cai trị: 2046 TCN - 1995 TCN) là vị pharaon đã sáng lập ra Vương triều thứ 11 thuộc Ai Cập cổ đại, vương triều đầu tiên của thời Trung Vương quốc.
**Userkare** (còn được gọi là **Woserkare**, có nghĩa là "Hùng mạnh khi là linh hồn của Ra") là vị pharaon thứ hai của vương triều thứ sáu, ông chỉ trị vì trong một thời gian
**Nyuserre Ini** (còn được viết là **Neuserre Ini** hay **Niuserre Ini**, và đôi khi là **Nyuserra**; trong tiếng Hy Lạp tên của ông được gọi là Rathoris, _Ραθούρης_), là một pharaon của Ai Cập cổ
**Djedkare Isesi** (được biết đến trong tiếng Hy Lạp là **Tancherês**), là một vị pharaon của Ai Cập cổ đại, ông là vị vua thứ tám và cũng là vị vua áp chót của vương
**Neferirkare Kakai** (được biết đến trong tiếng Hy Lạp là Nefercherês, Νεφερχέρης) là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông là vị vua thứ ba của vương triều thứ Năm. Neferirkare là con trai
**Unas** hoặc **Wenis**, hay còn được phát âm là **Unis** (cách viết theo tiếng Hy Lạp của **Oenas** hoặc **Onnos**), là một pharaon Ai Cập cổ đại, ông là vị vua thứ chín và cũng
**Qakare Ibi** là một vị pharaoh của Ai Cập cổ đại trong giai đoạn đầu Thời kỳ Chuyển tiếp thứ nhất (2181–2055 TCN) và là vị vua thứ 14 của vương triều thứ 8. Do
nhỏ|261x261px|Từ trái qua phải lần lượt là lăng mộ của [[Djoser, Unas, Userkaf]] **Saqqara** (Tiếng Ả Rập: سقارة), còn được viết là **Sakkara** hay **Saccara**, là một khu nghĩa trang của người Ai Cập cổ
**Teti**, còn được biết đến với tên gọi ít phổ biến hơn là **Othoes**, được đọc là **Tata** và phát âm là **Atat** hay **Athath**, là vị pharaon đầu tiên thuộc vương triều thứ Sáu
**Sahure** (có nghĩa là "Ngài là người gần gũi với Re") là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông còn là vị vua thứ hai của vương triều thứ năm và đã cai trị
**Lisht** hay **el-Lisht** là một ngôi làng nằm cách thủ đô Cairo, Ai Cập khoảng 65 km về phía nam, ngày nay là một phần của tỉnh Giza. Nơi này xưa kia là một khu nghĩa
**Danh sách các pharaon** của Ai Cập cổ đại bắt đầu từ giai đoạn Tiền Vương triều khoảng năm 3100 trước công nguyên tới Vương triều Ptolemaios sau khi Ai Cập trở thành một tỉnh
|- id="26" | colspan="3" id="27" style="text-align:center; font-size:95%; padding:0.6em 0em 0.6em 0em;" |thế=|giữa|510x510px|Vị trí của Cổ vương quốc
Cổ Vương quốc Ai Cập (khoảng năm 2686 TCN - khoảng năm 2181 TCN), lãnh
**Mastaba** **al-Fir’aun** (tiếng Ả Rập: مصطبة الفرعون, "Chiếc ghế dài của pharaon") là lăng mộ của Shepseskaf, vị pharaon cuối cùng của Vương triều thứ 4, nằm cách Kim tự tháp của Pepi II vài
**Ebla** (Sumer: 𒌈𒆷 _eb₂-la,_ , hiện đại: , **Tell Mardikh**) là một trong những vương quốc cổ nhất ở Syria. Tàn tích của nó ngày nay là một gò đất nằm gần làng Mardikh cách