Kim tự tháp Pepi I, nằm ở phía nam khu nghĩa trang Saqqara, được xây dựng bởi pharaon Pepi I - người cai trị thứ hai của Vương triều thứ 6 của trong lịch sử Ai Cập. Trước đây kim tự tháp Pepi I được đo với độ cao là 52,5 mét với các cạnh dài 78,75 mét, nghiêng một góc 53°07'48". Nhưng ngày nay, kim tự tháp đã trở nên điêu tàn, và độ cao của nó giờ đây chỉ còn 12 mét.
Kim tự tháp của Pepi I còn được biết đến với cái tên gọi "Vẻ đẹp trường tồn của Pepi".
Lịch sử khảo cổ
Kim tự tháp Pepi I lần đầu tiên được nghiên cứu bởi John Shae Perring vào những năm 1830. Vào năm 1881, Gaston Maspero đã tiến hành nghiên cứu những căn phòng bên dưới lòng đất và thấy được rất nhiều các văn khắc trên kim tự tháp. Kim tự tháp này tiếp tục được nghiên cứu bởi Jean-Philippe Lauer và Jean Sainte-Fare Garnot, nhưng kể từ năm 1963 thì Audran Labrousse và Jean Leclant đã tiếp quản công việc này. Ngoài việc khai quật nơi đây, họ đã phát hiện thêm các phức hợp kim tự tháp nhỏ hơn của các hậu phi của Pepi.
Ngôi đền thung lũng đã không còn, và con đường đắp cao nối giữa nó với phức hợp chỉ còn lại những tàn tích. Một kim tự tháp vệ tinh nằm ở góc đông nam của kim tự tháp chính. Hành lang của nó cũng dẫn xuống một căn phòng nhỏ. Trần phòng ngoài và phòng chính gồm 3 lớp gạch, mỗi lớp 16 viên gạch, được trang trí những ngôi sao màu trắng trên nền trời đêm. Những ký tự tượng hình được viết bằng mực xanh chi chít trên các bức tường.
Kim tự tháp Inenek-Inti
Kim tự tháp của hoàng hậu Inenek-Inti nằm ngay phía tây của Nubwenet. Xét về kích thước thì kim tự tháp và đền thờ của phức hợp Inenek-Inti có phần nhỉnh hơn của Nubwenet, có tường bao xung quanh và một kim tự tháp vệ tinh. Ngôi đền tang lễ của kim tự tháp này rất đặc biệt, nó bao quanh cả ba mặt bắc - đông - nam của kim tự tháp chính, bên trong có nhiều phòng phụ, một sảnh thờ, một khoảng sân rộng và một miếu nhỏ để đặt tượng. Về mặt cấu trúc vẫn không khác gì mấy so với của Nubwenet. Kế bên kim tự tháp của bà là một bút tháp, được cho là cổ nhất thuộc thời kỳ Cổ vương quốc.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Kim tự tháp Pepi I**, nằm ở phía nam khu nghĩa trang Saqqara, được xây dựng bởi pharaon Pepi I - người cai trị thứ hai của Vương triều thứ 6 của trong lịch sử
**Kim tự tháp Pepi II**, nằm xa về phía nam của Kim tự tháp Pepi I, thuộc khu nghĩa trang Saqqara, được xây dựng bởi pharaon Pepi II - vua thứ năm của Vương triều
**Kim tự tháp Merenre** là một lăng mộ được xây dựng trong khu nghĩa trang Saqqara. Đây là nơi an nghỉ cuối cùng của pharaon Merenre Nemtyemsaf I, vua thứ tư của Vương triều thứ
**Phức hợp kim tự tháp Unas** là một khu phức hợp nằm ở nghĩa trang Saqqara, nằm ở phía nam kim tự tháp của Djoser. Đây là nơi yên nghỉ của pharaon Unas, vị vua
**Pepi I Meryre** (hay **Pepy I**) là vị pharaon thứ ba thuộc vương triều thứ Sáu của Ai Cập cổ đại. Triều đại của ông kéo dài hơn 40 năm bắt đầu từ giai đoạn khoảng
**Pepi II** (còn là **Pepy II**; 2284 TCN – sau năm 2247 TCN, có thể hoặc là khoảng năm 2216 hoặc khoảng năm 2184 TCN Những dòng chữ khắc trên các khối đá cho biết
: _Đối với các vương hậu cùng tên, xem Ankhesenpepi I, Ankhesenpepi III và Ankhesenpepi IV_ **Ankhesenpepi II** hay **Ankhenesmeryre II**, là một vương hậu sống vào thời kỳ Vương triều thứ 6 trong lịch
**Lisht** hay **el-Lisht** là một ngôi làng nằm cách thủ đô Cairo, Ai Cập khoảng 65 km về phía nam, ngày nay là một phần của tỉnh Giza. Nơi này xưa kia là một khu nghĩa
: _Đối với vương hậu cùng tên, xem Iput I_ **Iput II** là một công chúa, đồng thời là vương hậu sống vào thời kỳ Vương triều thứ 6 trong lịch sử Ai Cập cổ
**Memphis** (; ) từng là kinh đô của Aneb-Hetch - vùng đầu tiên của Hạ Ai Cập - từ khi thành lập cho đến khoảng năm 2200 trước Công nguyên. Tên của thành phố trong
**Userkare** (còn được gọi là **Woserkare**, có nghĩa là "Hùng mạnh khi là linh hồn của Ra") là vị pharaon thứ hai của vương triều thứ sáu, ông chỉ trị vì trong một thời gian
**Teti**, còn được biết đến với tên gọi ít phổ biến hơn là **Othoes**, được đọc là **Tata** và phát âm là **Atat** hay **Athath**, là vị pharaon đầu tiên thuộc vương triều thứ Sáu
**Nyuserre Ini** (còn được viết là **Neuserre Ini** hay **Niuserre Ini**, và đôi khi là **Nyuserra**; trong tiếng Hy Lạp tên của ông được gọi là Rathoris, _Ραθούρης_), là một pharaon của Ai Cập cổ
**Djedkare Isesi** (được biết đến trong tiếng Hy Lạp là **Tancherês**), là một vị pharaon của Ai Cập cổ đại, ông là vị vua thứ tám và cũng là vị vua áp chót của vương
**Unas** hoặc **Wenis**, hay còn được phát âm là **Unis** (cách viết theo tiếng Hy Lạp của **Oenas** hoặc **Onnos**), là một pharaon Ai Cập cổ đại, ông là vị vua thứ chín và cũng
**Neferirkare Kakai** (được biết đến trong tiếng Hy Lạp là Nefercherês, Νεφερχέρης) là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông là vị vua thứ ba của vương triều thứ Năm. Neferirkare là con trai
**Qakare Ibi** là một vị pharaoh của Ai Cập cổ đại trong giai đoạn đầu Thời kỳ Chuyển tiếp thứ nhất (2181–2055 TCN) và là vị vua thứ 14 của vương triều thứ 8. Do
nhỏ|261x261px|Từ trái qua phải lần lượt là lăng mộ của [[Djoser, Unas, Userkaf]] **Saqqara** (Tiếng Ả Rập: سقارة), còn được viết là **Sakkara** hay **Saccara**, là một khu nghĩa trang của người Ai Cập cổ
**Merenre Nemtyemsaf II** () là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông là vị vua thứ 6 và là một vị vua áp chót của vương triều thứ 6. Ông đã cai trị trong
**Sahure** (có nghĩa là "Ngài là người gần gũi với Re") là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông còn là vị vua thứ hai của vương triều thứ năm và đã cai trị
**Danh sách các pharaon** của Ai Cập cổ đại bắt đầu từ giai đoạn Tiền Vương triều khoảng năm 3100 trước công nguyên tới Vương triều Ptolemaios sau khi Ai Cập trở thành một tỉnh
**Nebhotepre Mentuhotep II** (cai trị: 2046 TCN - 1995 TCN) là vị pharaon đã sáng lập ra Vương triều thứ 11 thuộc Ai Cập cổ đại, vương triều đầu tiên của thời Trung Vương quốc.
**Kebechet**, còn được gọi là **Qebehet**, **Kebhut**, **Kebehut**, **Qebehut** và **Kabechet** (nghĩa là "tẩy uế, thanh lọc" hoặc "dòng nước mát"), là một nữ thần trong văn hóa Ai Cập cổ đại, hiện thân của
**Ebla** (Sumer: 𒌈𒆷 _eb₂-la,_ , hiện đại: , **Tell Mardikh**) là một trong những vương quốc cổ nhất ở Syria. Tàn tích của nó ngày nay là một gò đất nằm gần làng Mardikh cách