✨Kế hoạch Staley–Taylor

Kế hoạch Staley–Taylor

này hiện đang gây tranh cãi về tính trung lập.''' | talk = } | fix = Xin đừng xóa bảng thông báo này cho đến khi kết thúc hoặc đạt được đồng thuận trong vấn đề này. | removalnotice = yes | date = } | all = Bàn cãi về TĐTL

Staley-Taylor (phát âm tiếng Việt: Xtalây - Taylo) là tên một kế hoạch thực thi chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam. Kế hoạch này được công bố tháng 5 năm 1961, mang tên hai người soạn thảo là nhà kinh tế học Eugene Staley của Viện nghiên cứu Stanford - Đại học Stanford và Đại tướng Maxwell D. Taylor, chỉ huy quân đội Mỹ tại Việt Nam. Theo tiến độ, kế hoạch được triển khai trong 4 năm (1961-1965). Nội dung của nó là "bình định Nam Việt Nam" trong vòng 18 tháng, từ đó đảm bảo cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH) thế chủ động trên chiến trường Nam Việt Nam.

Kế hoạch bao gồm 3 biện pháp chiến lược: Tăng cường sức mạnh QLVNCH, sử dụng nhiều máy bay, xe tăng để nhanh chóng tiêu diệt các lực lượng vũ trang Việt Cộng, sử dụng chỉ huy và cố vấn Mỹ để chỉ huy các đơn vị chiến đấu. Giữ vững thành thị, đồng thời dập tắt phong trào cách mạng ở nông thôn bằng "bình định" và lập "ấp chiến lược". *Ra sức ngăn chặn biên giới kiểm soát ven biển, cắt đứt nguồn chi viện từ miền Bắc vào, cô lập cách mạng Nam Việt Nam . Tuy vậy, nó đã bị phá sản từ năm 1963 với các sự kiện trận Ấp Bắc, Đảo chính chính phủ Ngô Đình Diệm, các "ấp chiến lược" không thực hiện được theo như kế hoạch ban đầu. Mặc dù không tuyên bố, kế hoạch chính thức chấm dứt khi các đơn vị lính thủy đánh bộ Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng tháng 3 năm 1965 ([http://www.tinvietonline.com/8/0/2008/8/291212/malpractice-lawyer.html] ) để trực tiếp tham chiến tại Nam Việt Nam.

Hình thành

Thời điểm thập niên 1960, Hoa Kỳ thực hiện chính sách "phản ứng linh hoạt", tiếp tục không gây chiến với Liên Xô và các nước vệ tinh nhưng dùng chiến tranh dưới mức thông thường đối phó với xu hướng đòi độc lập mang màu sắc cộng sản chủ nghĩa ở các nước mới giành độc lập.

Có một quan niệm mới đang hình thành ở Mỹ lúc ấy là phải nhìn nhận Nam Việt Nam như là một trọng điểm của toàn bộ quyền lợi của Mỹ ở Đông Nam Á. Chính vì thế trong năm 1961, các phái đoàn nghiên cứu của Mỹ tới tấp bay sang Nam Việt Nam: Phái đoàn của phó tổng thống Mỹ Lyndon B. Johnson đã đến Sài Gòn tháng 5 năm 1961, phái đoàn của tiến sĩ kinh tế Eugene Staley thuộc Viện nghiên cứu Stanford đến Sài Gòn tháng 6 năm 1961, phái đoàn của Maxwell D. Taylor và Walt Whitman Rostow trong Bộ quốc phòng Mỹ đến Nam Việt Nam tháng 10 năm 1961,... Kết quả: Nam Việt Nam sẽ là nơi thí điểm điển hình loại chiến tranh của chiến lược toàn cầu "Phản ứng linh hoạt" vừa ra đời.

Kế hoạch Staley–Taylor được đưa ra tháng 5 năm 1961 gồm 3 giai đoạn: Giai đoạn 1 thực hiện từ giữa năm 1961, nội dung chủ yếu là bình định Nam Việt Nam bằng biện pháp Ấp chiến lược. Giai đoạn 2 thực hiện từ đầu năm 1963, khôi phục kinh tế, tăng cường lực lượng quân đội, hoàn thành công cuộc bình định. *Giai đoạn 3 thực hiện đến cuối năm 1965, phát triển kinh tế, ổn định Nam Việt Nam và kết thúc chiến tranh. Kế hoạch được mở đầu và có ý nghĩa quyết định là ở giai đoạn 1 với hai biện pháp chiến lược là:

Tăng nhanh lực lượng và khả năng chiến đấu của QLVNCH. QLVNCH là xương sống của cuộc chiến tranh theo công thức: QLVNCH + vũ khí trang bị của Mỹ + cố vấn Mỹ.

Thực hiện cho được quốc sách Ấp chiến lược. Đó vừa là mục tiêu cơ bản, biện pháp chiến lược, vừa là kế sách trước mắt và lâu dài để giành thắng lợi trong chiến tranh ở Việt Nam.

Sau các trận đụng độ với Việt Cộng tại trận Ấp Bắc (tháng 1 năm 1963), trận Bình Giã (tháng 12 năm 1964), năng lực chiến đấu của QLVNCH cho thấy chưa đủ để thực hiện công cuộc "bình định", thậm chí còn có nguy cơ bị đẩy lùi. QLVNCH bị tiêu diệt từng tiểu đoàn, chiến đoàn, trung đoàn, kể cả lực lượng tổng dự bị, đã đứng trước sự sụp đổ không thể tránh khỏi, tinh thần quân lính rệu rã. Sau thất bại ở trận Ấp Bắc, đến sau trận Bình Giã, Mỹ thấy là quân đội này sẽ thua. Tài liệu mật Bộ quốc phòng Mỹ ghi nhận "Nỗi thất vọng của Washington D.C. đối với tình hình quân sự ngày càng tăng lên khi QLVNCH bị một cú thất bại trông thấy trong trận ác liệt Bình Giã ở đông-nam Sài Gòn". Theo hãng tin Mỹ UPI, riêng trong 2 năm 1963-1964 đã có tới 16 vạn quân đào ngũ, riêng 6 tháng đầu năm 1965, thêm 87 ngàn nữa đào ngũ.

Các quan chức trong chính quyền Mỹ đều thống nhất đánh giá tình hình Nam Việt Nam đang xấu đi. VNCH rơi vào tình trạng hỗn loạn, phần lãnh thổ dưới quyền kiểm soát của Việt Nam Cộng Hoà ngày càng bị thu hẹp. Như phát biểu của Bí thư thứ nhất Đảng Lao động Việt Nam lúc đó, Lê Duẩn thì "Mỹ thấy không thể thắng được ta trong chiến tranh đặc biệt".

Bên cạnh đó, các ấp chiến lược – biện pháp xương sống để li khai Việt Cộng với dân chúng không thực hiện đúng như đề ra: 2.895 trong số 6.164 ấp bị phá hoàn toàn, số còn lại bị phá đi, lập lại cả 5.000 lần.

Sau sự kiện chính phủ của tổng thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ, từ tháng 11 năm 1963 đến tháng 6 năm 1965, VNCH có hàng chục cuộc đảo chính, chỉnh lý thanh trừng lẫn nhau. Đại sứ Hoa Kỳ khi đó là Taylor phải phát biểu với các tướng lĩnh Việt Nam Cộng Hòa: "Người Mỹ chúng tôi chán ngấy về những cuộc đảo chính này rồi. Từ nay, người Mỹ chúng tôi không thể nào ủng hộ các ông nữa nếu như các ông cứ gây ra những chuyện như vậy", kế hoạch Staley-Taylor chính thức chấm dứt. Chiến tranh Việt Nam bước sang giai đoạn mới, giai đoạn lính Mỹ trực tiếp tham chiến ở Việt Nam và thực hiện Chiến lược Tìm và diệt của Chiến tranh cục bộ.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
này hiện đang gây tranh cãi về tính trung lập.''' | talk = } | fix = Xin đừng xóa bảng thông báo này cho đến khi kết thúc hoặc đạt được đồng thuận trong
Đại tướng **Maxwell Davenport Taylor** (sinh ngày 26 tháng 8 năm 1901, mất ngày 19 tháng 4 năm 1987) là một quân nhân và nhà ngoại giao Hoa Kỳ những năm giữa thế kỷ 20.
**Tình hình Miền Nam Việt Nam giai đoạn 1960-1965** là một giai đoạn của Chiến tranh Việt Nam ở miền Nam Việt Nam. Giai đoạn 1960-1965 trong lịch sử Miền Nam Việt Nam là một
**Phạm Xuân Ẩn** (12 tháng 9 năm 1927 – 20 tháng 9 năm 2006), tên khai sinh là Phạm Văn Thành, là một thiếu tướng tình báo người Việt Nam, có các biệt danh là
**Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam** là một chính phủ tồn tại ở miền nam Việt Nam trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam. Chính phủ này tồn tại
**Chiến tranh cục bộ** là một chiến lược quân sự của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam (giai đoạn 1965-1968). Nội dung cơ bản của chiến lược này là tận dụng ưu thế hỏa
**Nguyễn Đáng** (16 tháng 11 năm 1925 - 8 tháng 4 năm 1984), tên thường dùng là **Nguyễn Văn Trung**, tên thường gọi là **Năm Trung** hay **Năm Đáng,** là nhà hoạt động Cách mạng
**Nguyễn Văn Trỗi** (1 tháng 2 năm 1940 – 15 tháng 10 năm 1964) là một chiến sĩ biệt động thành phố Sài Gòn, đoàn viên Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, đã
**Chiến lược quân sự** là phương hướng hoạt động tổng thể của một quân đội sử dụng trong một cuộc chiến tranh, tập hợp các biện pháp quân sự chung nhất cho quân đội tác
Một trực thăng UH-1D của Đại đội Không quân 336 (Không lực Hoa Kỳ) rải chất hóa học lên một vùng rừng rậm tại miền Nam Việt Nam **Chiến dịch Ranch Hand** là một chiến