✨Kế hoạch Manstein

Kế hoạch Manstein

Thống chế Erich von Manstein Kế hoạch Manstein là phương án tấn công Vùng đất thấp và Bắc Pháp trong thời gian đầu của Chiến tranh Thế giới thứ hai, do tướng Erich von Manstein đề xuất vào ngày 31 tháng 10 năm 1939 và cuối cùng được Bộ Tổng tham mưu Lục quân Đức Quốc xã sửa đổi hoàn chỉnh thành phương án tác chiến thực tế vào ngày 24 tháng 2 năm 1940.

Điểm sáng tạo chính của kế hoạch Manstein là sử dụng mũi tấn công qua trung tâm nước Bỉ làm mồi nhử dụ chủ lực Đồng Minh tiến lên nghênh chiến, trong khi đó mũi chủ công thiết giáp được mở ở phía Nam mặt trận, tại chính diện bất ngờ nhất với Đồng Minh là Dinant - Sedan, để thọc sâu vào sau lưng chủ lực Đồng Minh ở Bỉ,

Bối cảnh ra đời

Ngày 9 tháng 10 năm 1939, Hitler đã ban hành Chỉ thị Fürer số 6 mà nội dung là chuẩn bị kế hoạch xâm lược Pháp và các nước Vùng đất thấp. Theo chỉ thị này, Bộ Tư lệnh Lục quân (Oberkommando des Heeres - OKH) mà cụ thể là tướng von Brauchitsch - Tư lệnh Lục quân và tướng Franz Halder, Tham mưu trưởng được giao nhiệm vụ chuẩn bị kế hoạch tác chiến. Ngày 9 tháng 9 năm 1939, bản kế hoạch đầu tiên, Aufmarschanweisung N°1 - Fall Gelb, được trình bày cho Hitler. Ngày 29 tháng 10, một vài điểm sửa đổi khác được đưa ra trong bản kế hoạch thứ 2 và sau đó có nhiều sửa đổi nhỏ theo cùng ý đồ cho đến tận lúc thay đổi hoàn toàn theo ý tưởng của von Manstein.

Kế hoạch của OKH

Aufmarschanweisung N°1. Aufmarschanweisung N°2. Mục tiêu của bản kế hoạch thứ nhất bám sát theo "Chỉ thị Fürer số 6", được nêu rõ là "Đánh bại lực lượng nhiều nhất có thể của Quân đội Pháp và Đồng Minh, đồng thời chiếm càng nhiều càng tốt lãnh thổ của Hà Lan, Bỉ và miền Bắc Pháp vừa để làm bàn đạp cho hoạt động trên không và trên biển chống lại Anh vừa mở rộng không gian bảo vệ cho vùng Rhur".

Theo mục tiêu đó, điểm nỗ lực tấn công chính được đặt vào trung tâm nước Bỉ. Cụm Tập đoàn quân B của tướng Fedor von Bock gồm 30 sư đoàn bộ binh được giao nhiệm vụ chủ công, chia thành 2 mũi: phía Bắc Liège của Tập đoàn quân 6 và Tập đoàn quân 2 (theo sau), phía Nam Liège của Tập đoàn quân 4. Hầu hết lực lượng cơ động, gồm 9 sư đoàn thiết giáp và 4 sư đoàn bộ binh cơ giới hóa, đều được chia cho 2 mũi này, với kỳ vọng làm mũi nhọn xuyên thủng phòng tuyến của Đồng Minh và phát triển về bờ biển Flanders.

Trong phiên bản kế hoạch thứ hai, Tập đoàn quân 18 của Cụm Tập đoàn quân B có nhiệm vụ tấn công Hà Lan cũng được gom vào cánh chủ công tạo thành 2 mũi mạnh, mỗi mũi 2 Tập đoàn quân Ngày 11 tháng 11, Hitler ra một chỉ thị mới, trong đó yêu cầu đưa Quân đoàn Thiết giáp 19 tập trung ở khu vực Dinant để lập thêm mũi chủ công thứ 3, và dẫn tới những phiên bản sửa đổi khác. Tuy nhiên, hai bản kế hoạch lại khác hẳn nhau.

Điểm khác biệt đầu tiên là kế hoạch Schlieffen là sử dụng cánh phải mạnh để thọc sườn quân Pháp từ phía Bắc, từ đó phát triển xuống phía Nam rồi vòng lại phía Đông để bao vây toàn bộ chủ lực Pháp, trong khi đó kế hoạch OKH chỉ nhắm đạt một phần chiến thắng bằng cách đánh bại Đồng Minh ở phía Bắcchiếm bờ biển cho hoạt động trên không và trên biển kế tiếp. Tại thời điểm 1940, Đồng Minh đã củng cố phòng tuyến Maginot và sẵn sàng đón đầu mũi tấn công mạnh vào Trung bộ nước Bỉ. Do thiếu bất ngờ chiến lược, nên trong trận đánh trực diện này chiến thắng phụ thuộc vào khả năng tạo bất ngờ chiến thuật. Với sự hỗ trợ của một hệ thống pháo đài và công sự kiên cố, Đồng Minh thậm chí có thể giành chiến thắng trước Cụm Tập đoàn quân B ngay ở Bỉ.

Một điểm rủi ro khác của kế hoạch, theo von Manstein là chỉ huy Pháp có thể đưa ra một phương án đối phó táo bạo: vừa cản phía trước vừa triển khai một cuộc phản công quy mô lớn vào sườn Nam của mũi chủ công. Mũi chủ công tiến càng xa thì rủi ro càng lớn, và nếu phía Pháp tập hợp được khoảng 60 sư đoàn thì Cụm Tập đoàn quân A không đủ sức ngăn cản được cuộc phản công. Tuy nhiên, những ý kiến này đã không đủ thời gian để thành hình một ý tưởng khác và trở thành một kế hoạch được chấp thuận nếu như von Brauchitsch và Franz Halder không tìm cách viện cớ quân đội chưa sẵn sàng sau chiến dịch Ba Lan để trì hoãn thời gian bắt đầu chiến dịch.

Các điểm chính của kế hoạch Manstein

phải|Đề xuất của von Manstein ngày 31/10/1939. Căn cứ vào các phân tích về bản kế hoạch của OKH, von Manstein đề xuất một phương án mới, thể hiện trong các bản kiến nghị gửi cho Bộ Tư lệnh Lục quân Đức (OKH) mà bản đầu tiên được gửi là vào ngày 31 tháng 10 năm 1939. Các điểm chính của phương án mới cũng đồng thời thể hiện trong thư của tướng von Rundstedt gửi cho tướng Tư lệnh Lục quân von Brauchitsch. Sau khi xuyên qua tuyến phòng ngự của Pháp ở đoạn Dinant - Sedan, mũi chủ công sẽ tiến về phía hạ nguồn sông Somme để cắt đường rút lui của chủ lực Đồng Minh. Tình cờ von Manstein và Guderian - Tư lệnh Quân đoàn Thiết giáp 19 - đều ở chung một khách sạn, và hai người đã có những cuộc gặp và trao đổi về phương án tác chiến. Với ý kiến đó, Guderian cho rằng việc lập đầu cầu - đột phá phòng tuyến bên sông Meuse phải do bộ binh cơ giới hóa đảm trách với sự hỗ trợ hỏa lực của Không quân thay vì phải chờ tập hợp bộ binh - pháo binh để đột phá theo quan điểm truyền thống. Ngay sau khi vượt sông thành công, lực lượng thiết giáp phải hành tiến về cửa sông Somme nhanh nhất có thể để đảm bảo cắt được đường rút của chủ lực Đồng Minh bất chấp nguy cơ bị hở sườn. Tuy nhiên, với tính toán rằng bộ binh không thể kịp triển khai chiếm lĩnh các vị trí phòng ngự dọc theo hành lang tiến quân, nên Manstein đề xuất ý tưởng "phòng ngự chủ động" bằng cách mở một mũi hộ công bằng lực lượng cơ động về phía Nam Sedan. Tổng cộng von Manstein viết bảy bản thông tư, nhưng tất cả đều nằm lại ở bàn giấy của OKH: trong khi Halder cho rằng von Manstein chỉ nhằm ý đồ tăng thêm tầm quan trọng của Cụm Tập đoàn quân A, thì von Brauchitsch ca ngợi tính sáng tạo của đề xuất nhưng lại bổ sung là không có thêm lực lượng để triển khai nó.

Ngày 27 tháng 1 năm 1940, von Mantein trở thành nạn nhân của những đề xuất của mình khi được thuyên chuyển sang Phổ nắm Quân đoàn 38 với cớ "đề bạt". Phẫn nộ với nước cờ của Halder, hai sĩ quan trong Ban Tham mưu của Cụm Tập đoàn quân A là Trung tá Blumentritt và Thiếu tá von Treskow đã tiếp cận với tướng Schmundt - tham tá quân vụ của Hitler - trong lúc Schmundt tham dự buổi diễn tập của Cụm Tập đoàn quân A.

Sau cuộc gặp chung, von Manstein được đưa vào gặp riêng Hitler cùng với Schmundt và tướng Jodl, một thành viên trong Bộ Tổng Tham mưu Lục quân. Ấn tượng trước những lập luận vững chắc của von Manstein, Hitler đã đồng ý với tất cả các điểm đề xuất, kể cả "lực lượng thiết giáp mạnh".

Điểm thứ hai là việc lập đầu cầu cho lực lượng thiết giáp. Halder cho rằng yêu cầu của Guderian sử dụng thành phần bộ binh cơ giới hóa trong các sư đoàn thiết giáp để lập đầu cầu bên sông Meuse là "vô nghĩa". Ông cho rằng các bước triển khai phải theo phương pháp truyền thống: tập hợp đủ bộ binh và pháo hỗ trợ ở ngày thứ 9 để lập đầu cầu, đột phá phòng tuyến, sau đó mới đưa lực lượng thiết giáp vào phát huy chiến quả.

Kế hoạch Manstein trong thực tiễn

Sự phân hóa của các tướng lĩnh trước chiến dịch

Kể cả ngay khi đã được Hitler chuẩn thuận, phương án tác chiến mới vẫn bị các tướng lĩnh cao cấp coi là "phiêu lưu". Trong số đó, tướng von Bock, Tư lệnh Cụm Tập đoàn quân B, tìm cách thuyết phục Hitler từ bỏ nó, còn tướng von Rundstedt, người đã bảo trợ cho ý tưởng của von Manstein, cũng đột nhiên chuyển sang nghi ngờ.

Trước sự phản đối đó, Guderian, Tư lệnh Quân đoàn Thiết giáp 19 - Quân đoàn nhận nhiệm vụ chủ công, chỉ có 2 đồng minh là Hitler và von Manstein trong ý tưởng tác chiến độc lập của thiết giáp như nguyên bản. Thế nhưng Hitler vốn dễ thay đổi lập trường, còn von Manstein đã bị vô hiệu hóa. thì Cụm Thiết giáp Kleist sẽ được ưu tiên sử dụng mọi tuyến đường hành quân. Tuy nhiên, do von Rundstedt không tin là bộ binh cơ giới hóa có thể lập được đầu cầu, nên đã lựa chọn phương án nước đôi, đưa bộ binh cùng hành tiến song song.

Hành động của Guderian và Rommel trong chiến dịch

Trong thực tế chiến dịch, Guderian đã hành động đúng như ý tưởng ban đầu của von Manstein bất chấp thượng lệnh. Tướng Kleist, chỉ huy Cụm Thiết giáp, lẫn tướng von Rundstedt đều yêu cầu Guderian phải chờ bộ binh tập hợp ở đầu cầu sông Meuse, nhưng ngay chiều 14 tháng 5, Guderian đã tung ngay Sư đoàn Thiết giáp số 1 và số 2 theo hướng Tây về phía Rethel. Trong khi đó, mặc dù mũi tấn công về phía Nam Sedan để chủ động phòng ngự đã bị cắt bỏ, nhưng Guderian vẫn triển khai bằng Sư đoàn Thiết giáp số 10 và Trung đoàn Bộ binh Đại Đức.

Một nhân tố khác là tướng Erwin Rommel, Sư đoàn trưởng Sư đoàn Thiết giáp số 7, cũng hành động như thế, chỉ có khác là Rommel có sự bảo vệ của chỉ huy là tướng von Kluge - Tư lệnh Tập đoàn quân 4. Ngay sau khi vượt sông, Rommel đã tích cực tiến quân về phía Tây. Tận dụng thời cơ quân Pháp rút lui do bị 2 sư đoàn của Guderian khoan vào sườn, Sư đoàn của Rommel đã cấp tốc truy kích đánh sụm Tập đoàn quân 9 của Pháp, nhanh chóng độc lập tiến về phía Tây mà không cần chờ bộ binh.

May mắn của kế hoạch sửa đổi ở sườn trái

Các mũi tấn công phòng ngự chủ động ở sườn trái theo ý tưởng ban đầu của von Manstein bị cắt bỏ, trong đó có mũi theo hướng Tây Nam về Reims. Đây cũng là vị trí tập kết của Tập đoàn quân 7, vốn là lực lượng cơ động dự bị Tổng Hành dinh Pháp. Theo kế hoạch Dyle mở rộng của Maurice Gamelin, Tập đoàn quân 7 được điều sang cánh trái mặt trận để tiến sang Breda Hà Lan bất chấp phản đối của tướng Alphonse Joseph Georges - Tư lệnh Mặt trận Tây Bắc của Pháp. Sau trận chiến, khi nói về vai trò của Manstein, Hitler đã nói nguyên văn là Trong số các tướng lĩnh mà tôi nói chuyện, thì Manstein là người hiểu ý tôi nhất. Sử gia Karl Heinz Frieser cũng cho rằng việc mở thêm một mũi cơ động ở phía Nam mặt trận của Hitler chỉ nhằm mục tiêu hỗ trợ cho 2 mũi tấn công chính ở Bỉ, và do đó chỉ là "nửa vời".

Ngoài Hitler, Halder về sau cũng tự nhận là mình là tác giả chính căn cứ vào việc đã chuẩn bị sẵn phương án tác chiến số 4 để trình bày trong cuộc họp ngày 18 tháng 2 năm 1940, đồng thời nhận rằng ông đã đề xuất mở mũi chủ công qua rừng Ardennes từ cuối tháng 9. Tuy nhiên, nhà sử học Karl Heinz Frieser cho rằng cách nhận công của Halder không có bằng chứng cụ thể, Vai trò này của von Manstein cũng được các nhà sử học khác như Julian Jackson hay William Shirer công nhận.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Thống chế Erich von Manstein **Kế hoạch Manstein** là phương án tấn công Vùng đất thấp và Bắc Pháp trong thời gian đầu của Chiến tranh Thế giới thứ hai, do tướng Erich von Manstein
**Kế hoạch Dyle - Breda** là phương án phòng ngự của Quân đội Pháp và các Đồng Minh Anh, Bỉ và Hà Lan trước khả năng Đức tấn công vào thời gian đầu của Chiến
**Erich von Manstein** tên đầy đủ là **Fritz Erich Georg Eduard von Lewinski** (24 tháng 11 năm 1887 – 10 tháng 7 năm 1973) là một chỉ huy cấp cao của quân đội Đức thời
**Trận chiến nước Pháp** (), còn được gọi là **Chiến dịch phía Tây** (**'), **Chiến dịch nước Pháp** (, ) và **Nước Pháp thất thủ''', là cuộc xâm lược của Đức nhằm vào Pháp, Bỉ,
**Hermann Hoth** (1885-1971) là một Đại tướng Lục quân Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông là một trong những chỉ huy hàng đầu của binh chủng Tăng-Thiết giáp Đức, đã dẫn dắt
**Henning Hermann Karl Robert von Tresckow** (; sinh ngày 10 tháng 1 năm 1901 - mất 21 tháng 7 năm 1944) là một sĩ quan Wehrmacht hàm thiếu tướng. Ông là người đã tổ chức
**Trận Dunkerque** (hay **Trận Dunkirk**) là một trận đánh quan trọng nổi tiếng trong Chiến tranh thế giới thứ hai, diễn ra tại xã Dunkerque, Pháp từ ngày 26 tháng 5 cho đến ngày 4
**Trận La Horgne** diễn ra vào ngày 15 tháng 5 năm 1940 trên miền Ardennes (Pháp), sau khi Quân đoàn Thiết giáp XIX (Đức) dưới sự thống lĩnh của Thượng tướng Thiết giáp Heinz Guderian
**Cụm tập đoàn quân C** (tiếng Đức, _Heeresgruppe C_, viết tắt **HGr C**) là một phiên hiệu đại đơn vị cấp Cụm tập đoàn quân của Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai. Trong
**Chiến dịch Donets** hay **Trận Kharkov lần thứ ba** là một chuỗi những chiến dịch phản công của quân đội Đức quốc xã nhằm vào Hồng quân Liên Xô tại gần khu vực Kharkov trong
**Chiến dịch Krym – Sevastopol (1941–1942)** bao gồm toàn bộ các trận chiến đấu của quân đội Xô Viết và quân đội Đức Quốc xã cùng với quân Romania tại bán đảo Krym từ tháng
**Chiến dịch Bão Mùa đông** (Tiếng Đức: _Unternehmen Wintergewitter_) là một cuộc hành quân lớn tại phía Nam Mặt trận Xô-Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai do Cụm Tập đoàn quân Sông Đông
**Trận bán đảo Kerch (1942)** là tổ hợp ba chiến dịch quân sự lớn của Hồng Quân Liên Xô chống lại quân đội Đức Quốc xã và quân chư hầu România tại bán đảo Kerch
**Chiến dịch Sao Thổ** (tiếng Nga: _Операция Сатурн_) là mật danh do Bộ Tổng tư lệnh tối cao Quân đội Liên Xô đặt cho cuộc tấn công quy mô lớn thứ hai của Chiến cục
**Trận Stalingrad** (23 tháng 8 năm 19422 tháng 2 năm 1943) là một trận đánh lớn diễn ra trong Chiến tranh Xô-Đức giữa Đức Quốc xã cùng với các nước thuộc địa và Hồng quân
**Chiến dịch tấn công Proskurov (Khmelnitskyi)–Chernovtsy** (từ 4 tháng 3 đến 17 tháng 4 năm 1944) là một trong các trận đánh lớn nhất giữa Hồng quân Liên Xô và Quân đội Đức quốc xã
**Trận vòng cung Kursk** (lịch sử Nga gọi là **_Chiến dịch phòng ngự - phản công Kursk_**) là một trong những chiến dịch lớn nhất trên chiến trường Xô-Đức trong Chiến tranh thế giới thứ
**Chiến dịch tấn công hữu ngạn Dniepr** ở Ukraina (1944), hay còn được gọi là **Chiến dịch tấn công Dniepr–Carpath**, kéo dài từ ngày 24 tháng 12 năm 1943 đến ngày 14 tháng 4 năm
**Otto Moritz Walter Model** (24 tháng 1 năm 1891 - 21 tháng 4 năm 1945) là một thống chế của quân đội Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Model nổi tiếng
**Trận Kolín** diễn ra vào ngày 18 tháng 6 năm 1757 trên chiến trường Trung Âu của cuộc Chiến tranh Bảy năm, giữa 35.000 quân Phổ do vua Friedrich Đại đế chỉ huy và hơn
**Chiến dịch Ngôi Sao** (Tiếng Nga: Oпераций «Звезда») là tên mã của **Chiến dịch Belgorod-Kharkov**, hoạt động quân sự lớn thứ ba do Phương diện quân Voronezh (Liên Xô) tiến hành tại miền Trung nước
**Chiến dịch phản công Belgorod–Kharkov** là một chuỗi các hoạt động quân sự lớn do hai phương diện quân Voronezh và Thảo nguyên của Quân đội Liên Xô làm chủ lực, có sự hỗ trợ
**Chiến dịch Blau** (tiếng Đức: **_Fall Blau_**) là mật danh của Kế hoạch tổng tấn công từ mùa hè năm 1942 của quân đội Đức Quốc xã trên toàn bộ cánh Nam của mặt trận
**Nikolay Fyodorovich Vatutin** (tiếng Nga: _Николай Федорович Ватутин_; sinh ngày 16 tháng 12 năm 1901, mất ngày 14 tháng 4 năm 1944) là một chỉ huy Hồng quân nổi tiếng trong Chiến tranh thế giới
**Chiến dịch Sao Thiên Vương (Uranus)** (tiếng Nga: _Операция «Уран»_, phiên âm La Tinh: _Operatsiya Uran_; tiếng Đức: _Operation Uranus_) là mật danh của chiến dịch có tính chiến lược của Liên Xô thời gian
**Chiến dịch hợp vây Korsun–Shevchenkovsky** còn được gọi là "Tiểu Stalingrad" hay "Stalingrad trên bờ sông Dniepr" là một chiến dịch lớn trong Chiến tranh Xô-Đức, kéo dài từ ngày 24 tháng 1 đến 17
Quân kỳ của Quân đội Đức quốc xã**Lịch sử quân sự Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai** bắt đầu từ quân số 100.000 do Hòa ước Versailles hạn chế, không được quyền có
**Chiến dịch tấn công Zhitomir–Berdichev** () là một cuộc tấn công chiến lược của Hồng quân Liên Xô nhằm vào quân đội phát xít Đức ở bờ hữu ngạn sông Dniepr, phía Tây, Tây Nam
**Friedrich Wilhelm Ernst Paulus** (1890 – 1957) là Thống chế quân đội Đức Quốc xã. Ông là vị chỉ huy cao cấp nhất của lực lượng quân Đức và đồng minh công phá Stalingrad, thất
**Fedor von Bock** (3 tháng 12 năm 1880 – 4 tháng 5 năm 1945) là một Thống chế quân đội Đức thời Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông đã đóng một vai trò quan
phải|[[Mikhail Nikolayevich Tukhachevsky trong bộ quân phục Tư lệnh Quân khu (_Командующий войсками военного округа_) - một tác giả quan trọng của học thuyết tác chiến chiều sâu.]] **Tác chiến chiều sâu** (Tiếng Nga: _Теория
**Trận Kiev (1943)** là một trong các trận đánh quan trọng nhất của chuỗi Chiến dịch Tả ngạn sông Dniepr. Từ ngày 24 tháng 9 đến ngày 24 tháng 12 năm 1943, trên toàn bộ
**Chiến dịch tấn công Sinyavino** là một chiến dịch quân sự xảy ra trong Chiến tranh Xô-Đức, do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm tấn công vào quân đội Đức Quốc xã. Mục tiêu
**Georgy Konstantinovich Zhukov** (; , 1 tháng 12 năm 1896 – 18 tháng 6 năm 1974) là một sĩ quan cấp tướng và là Nguyên soái Liên Xô. Ông cũng từng là Tổng Tham mưu
**Trận sông Dniepr** là một chuỗi các chiến dịch tấn công chiến lược của Quân đội Liên Xô trong giai đoạn mở đầu cho thời kỳ thứ ba của cuộc chiến tranh Xô-Đức, đồng thời
**Chiến dịch Chernigov-Poltava** là cuộc tấn công chiến lược của Quân đội Liên Xô chống lại quân đội Đức Quốc xã tại giai đoạn đầu của Chiến dịch tấn công tả ngạn Ukraina trong Chiến
**Aleksandr Mikhailovich Vasilevsky** (tiếng Nga: _Алекса́ндр Миха́йлович Василе́вский_) (1895-1977) là một chỉ huy Hồng quân nổi tiếng, từ năm 1943 là Nguyên soái Liên bang Xô viết. Ông là Tổng Tham mưu trưởng Hồng quân
**Trận Verdun** là một trận lớn chính của mặt trận phía Tây trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Trận đánh nổ ra giữa quân đội Đức và Pháp từ 21 tháng 2 đến 19
**Erwin Johannes Eugen Rommel** (15/11/1891 - 14/10/1944) còn được biết đến với tên **Cáo Sa mạc**, _Wüstenfuchs_ , là một trong những vị Thống chế lừng danh nhất của nước Đức trong cuộc Chiến tranh
**Chiến dịch phòng ngự chiến lược Leningrad** là tổ hợp các hoạt động quân sự của quân đội Liên Xô chống lại các cuộc tấn công của quân đội Đức Quốc xã tại khu vực
_Đối với trận đầu tiên diễn ra ở đây, xem Trận Sedan (1870)._ **Trận Sedan**, còn gọi là **Trận Sedan lần thứ hai**, là trận đánh mở màn Trận chiến nước Pháp trong Chiến tranh
**Chiến dịch Velikiye Luki** (tiếng Nga: _Великолукская наступательная операция_) là một chiến dịch tấn công do Phương diện quân Kalinin của Hồng quân Liên Xô tiến hành nhằm vào Tập đoàn quân thiết giáp số
**Chiến dịch Cái Vòng** (_Операция Кольцо_) là một hoạt động quân sự chiến lược lớn của Quân đội Liên Xô chống lại Quân đội Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai đồng
**Cuộc đột kích Tatsinskaya** là một trận đánh nằm trong Chiến dịch Sao Thổ diễn ra từ ngày 24 đến ngày 29 tháng 12 năm 1942. Trong trận này, Quân đoàn xe tăng 24 do
**Chiến dịch tấn công Uman–Botoşani** hay _Chiến dịch tấn công Uman-Botoshany_ Chiến dịch này có quy mô lớn về binh lực của hai bên Liên Xô và Đức tại giai đoạn hai của các hoạt
**Cụm tập đoàn quân Sông Don** () là một cụm tập đoàn quân tồn tại trong thời gian ngắn của Lục quân Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai. Ngày 20 tháng 11 năm
**Trận phòng thủ Pskov** là một hoạt động quân sự lớn của quân đội Đức Quốc xã và quân đội Liên Xô tại khu vực phía Nam hồ Chuskoye, tuyến sông Velikaya và thành phố
**Trận phản công Soltsy** là hoạt động quân sự lớn đầu tiên của Phương diện quân Bắc (sau này là Phương diện quân Leningrad) trên khu vực phía Tây hồ Ilmen. Đây cũng là trận
**Chiến dịch tấn công Kirovograd** là cuộc tấn công lớn đầu năm 1944 của Phương diện quân Ukraina 2 (Liên Xô) do đại tướng I. S. Konev chỉ huy chống lại các đơn vị thuộc
**Cụm tập đoàn quân Nam** () là một phiên hiệu đại đơn vị cấp Cụm tập đoàn quân của Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai. Đơn vị là một trong những cánh quân