✨Kaolinit

Kaolinit

Kaolinit là một khoáng vật sét với công thức hóa học Al2Si2O5(OH)4, được hình thành do quá trình phong hóa của fenspat, chủ yếu là octodaz và anbit. Quá trình phong hóa trên được gọi là quá trình kaolin hóa. Nó là khoáng vật silicat với một tấm tứ diện liên kết thông qua các nguyên tử oxy với một tấm bát diện là alumina. Các loại đất sét giàu kaolinit gọi là đất sét trắng, đất sét cao lanh, cao lanh hay kaolin.

Tên gọi của nó xuất phát từ 高岭 ("Cao Lĩnh") tại Cảnh Đức Trấn, tỉnh Giang Tây, Trung Quốc. Kaolinit lần đầu tiên được miêu tả như là một loại khoáng vật vào năm 1867 cho khoảng sản thu được tại thung lũng sông Jari ở Brasil.

Kaolinit có độ co giãn và dung lượng trao đổi cation thấp (1-15 meq/100g). Nó là khoáng vật mềm, dạng đất, thường có màu trắng (đất sét phyllosilicat nhị bát diện), được sinh ra do phong hóa hóa học của các khoáng vật silicat nhôm như fenspat. Tại nhiều nơi trên thế giới, nó có màu hồng-cam-đỏ do lẫn oxide sắt, tạo cho nó màu nâu đỏ gỉ sắt dễ thấy. Các hàm lượng nhỏ hơn sinh ra màu trắng, vàng hay cam nhạt. Các lớp xen kẽ nhau đôi khi cũng được tìm thấy, chẳng hạn tại vườn bang hẻm núi Providence tại bang Georgia, Hoa Kỳ.

Chi phối trong các loại đất vùng nhiệt đới

Sét chứa kaolinit có phổ biến trong đất được hình thành từ phong hóa hóa học của đá trong điều kiện khí hậu nóng ẩm - chẳng hạn trong các khu vực rừng mưa nhiệt đới. Khi so sánh đất dọc theo gradient về phía khí hậu khô hơn hay mát hơn thì tỷ lệ kaolinit giảm xuống, trong khi tỷ lệ của các khoáng vật sét khác, như illit (trong khí hậu mát hơn) hay smectit (trong khí hậu khô hơn) lại tăng lên. Các khác biệt phụ thuộc vào khí hậu như vậy trong hàm lượng khoáng vật sét thường được sử dụng để suy ra các thay đổi về khí hậu trong quá khứ địa chất, trong đó các loại đất cổ đã bị vùi lấp và bảo tồn.

Biến đổi cấu trúc

Các loại sét kiểu kaolin trải qua một chuỗi các biến đổi pha dưới tác động của nhiệt trong không khí ở điều kiện áp suất thông thường. Sự khử hydroxyl thu nhiệt (hay nói cách khác là khử nước) bắt đầu ở 550-600 °C để sinh ra metakaolin (Al2Si2O7) không có trật tự, nhưng sự mất hydroxyl (-OH) tiếp diễn được quan sát tới 900 °C và góp phần vào sự oxy hóa dần dần của metakaolin (Bellotto và ctv., 1995). Do sự bất đồng lịch sử liên quan tới bản chất của pha metakaolin, các nghiên cứu bao quát chung đã dẫn tới sự đồng thuận chung rằng metakaolin không phải chỉ là hỗn hợp đơn giản của silica (SiO2) vô định hình và alumina (Al2O3), mà là một cấu trúc vô định hình phức tạp trong đó duy trì một số trật tự phạm vi dài hơn (nhưng một cách chặt chẽ thì không kết tinh) do sự chồng đống của các lớp lục giác của nó (Bellotto và ctv., 1995).

: 2Al2Si2O5(OH)4 —> 2Al2Si2O7 + 4H2O

Nung nóng tiếp tới 925-950 °C sẽ chuyển hóa metakaolin thành một dạng spinel khuyết nhôm-silic (Si3Al4O12), đôi khi được nói tới như là cấu trúc kiểu gama-alumina:

: 2Al2Si2O7 —> Si3Al4O12 + SiO2

Khi nung nóng tới khoảng 1.050 °C, pha spinel (Si3Al4O12) kết nhân và chuyển đổi thành mullit (3Al2O3•2SiO2) cùng cristobalit (SiO2) có độ kết tinh cao:

: 3Si3Al4O12 —> 2Si2Al6O13 + 5SiO2

Sử dụng

Kaolinit được sử dụng trong gốm sứ, y tế, giấy hồ, cũng như phụ gia thực phẩm (E559), trong thuốc đánh răng, cũng như vật liệu khuếch tán ánh sáng trong một số loại đèn nóng sáng cho ánh sáng trắng và trong mỹ phẩm. Nó nói chung là thành phần chính trong sản xuất đồ sứ.

Nó cũng được sử dụng trong sơn để khuếch tán rộng dioxide titan (TiO2) và biến đổi mức độ bóng; trong cao su cho các tính chất bán-tăng cường và trong các chất kết dính để biến đổi tính chất lưu biến học.

Ứng dụng lớn nhất có lẽ là trong sản xuất giấy, bao gồm các việc tạo độ bóng trên một số chủng loại giấy. Các dạng kaolin phẩm cấp thương mại được cung cấp và vận chuyển ở dạng bột khô, các viên nửa khô hay hồ nhão.

Gần đây hơn và cũng hạn chế hơn, việc sử dụng nó dưới dạng bình xịt với công thức đặc biệt được áp dụng đặc biệt cho các loại hoa quả, rau cỏ để xua đuổi hay ngăn chặn sâu bọ gây hại, và ít nhất đối với táo là để ngăn ngừa cháy nắng. Sử dụng truyền thống là để làm dịu rối loạn dạ dày, tương tự như cách mà các con vẹt (và sau này là con người) tại Nam Mỹ nguyên thủy đã sử dụng nó. Cho tới đầu thập niên 1990, nó là chất hoạt hóa trong thuốc chống tiêu chảy Kaopectate.

Trong tháng 4 năm 2008, Trung tâm Nghiên cứu Y học của Hải quân Mỹ thông báo việc sử dụng thành công các hạt aluminosilicat kích thước nano có nguồn gốc từ kaolinit trong các loại gạc truyền thống như QuikClot® Combat Gauze.

Phổ biến

Kaolinit là một trong số các khoáng vật phổ biến nhất; nó được khai thác như là kaolin tại Brasil, Pháp, Vương quốc Anh, Đức, Ấn Độ, Australia, Hàn Quốc, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Hoa Kỳ.

Tại Việt Nam

Trữ lượng cao lanh ở Việt Nam dự báo khoảng 15 triệu tấn, hàm lượng Al2O3 trong kaolin khoảng từ 29-38%. Quặng kaolin tập trung chủ yếu ở các tỉnh như Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Quảng Ninh, Tuyên Quang, Lâm Đồng, Đồng Nai. Đáng chú ý là cao lanh Lâm Đồng, được hình thành do quá trình phong hóa của natri-calci fenspat, trong đó fenspat kiềm chiếm ưu thế (anbit). Thường phân bố dài khoảng 5 đến 10 km, với bề dày khoảng 5 đến 10 m. Cao lanh Đà Lạt tập trung ở Prenn, Trại Mát và Bảo Lộc.

Linh tinh

nhỏ|phải|[[Dự án Eden.]]

Tinh thể học kaolinit đóng vai trò trong công trình của Linus Pauling về bản chất của liên kết hóa học.

Dự án Eden, một tổ hợp môi trường gần St Austell, Cornwall, Anh, được xây dựng trong mỏ đất sét trắng bỏ hoang.

Sandersville, một thị trấn nhỏ tại bang Georgia, Hoa Kỳ, tổ chức lễ hội kaolin hàng năm. Sandersville có các mỏ kaolin lớn trong khắp thị trấn và các khu vực cận kề bao quanh. Nền kinh tế của thị trấn này cũng dựa vào công nghiệp kaolin. nhỏ|phải|Kaolin.

Khi bị nung nóng tới 650-900 °C kaolinit bị mất nước để tạo ra metakaolin. Theo Hiệp hội Bê tông đúc sẵn Hoa Kỳ thì nó là vật liệu kết dính bổ trợ (SCM), khi thêm vào hỗn hợp trộn bê tông thì metakaolin tác động tới tốc độ hydrat hóa của xi măng Portland khi thay thế xi măng Portland bằng metakaolin tới 20% theo trọng lượng.

Các thợ gốm sứ thường biểu diễn vật liệu này như là các oxide, vì thế họ viết công thức của kaolinit như là Al2O3▪2(SiO2)▪2(H2O) với thành phần lý thuyết: Al2O3: 39,48%; SiO2: 46,6%; H2O: 13,92%. Công thức này cũng hữu ích để miêu tả quá trình nung đất sét như là kaolin bị mất 2 phân tử nước, được gọi là nước "hóa học", khi nung tới nhiệt độ đủ cao. Nó là khác biệt với nước "vật lý" của đất sét, là nước sẽ bị mất đi do bay hơi và không phải một phần của công thức hóa học.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Kaolinit** là một khoáng vật sét với công thức hóa học Al2Si2O5(OH)4, được hình thành do quá trình phong hóa của fenspat, chủ yếu là octodaz và anbit. Quá trình phong hóa trên được gọi
MÔ TẢ SẢN PHẨMMặt nạ đất sét ngải cứu ISNTREE REAL MUGWORT CLAY MASK 100ML - DUNG TÍCH: 100ML - XUẤT XỨ: HÀN QUỐC - THƯƠNG HIỆU: ISNTREE Isntree Real Mugwort ClayMask là mặt nạ
**Khoáng vật sét** là các loại khoáng vật được hình thành trong tự nhiên từ các quá trình phong hóa tại chỗ các khoáng vật silicat và nhôm silicat của đá mácma và đá biến
nhỏ|Một mẫu cao lanh. **Cao lanh** (bắt nguồn từ từ tiếng Pháp _kaolin_ /kaɔlɛ̃/) là một loại đất sét màu trắng, bở, chịu lửa, với thành phần chủ yếu là khoáng vật kaolinit cùng một
nhỏ|Bauxit so sánh với một đồng xu (đặt ở góc). nhỏ|Bauxit với phần lõi còn nguyên mảnh đá mẹ chưa phong hóa. thumb|Bauxit, Les Baux-de-Provence. **Boxide** (bắt nguồn từ từ tiếng Pháp _bauxite_ /boksit/) là
nhỏ|Chén trà men "lông thỏ" (兔毫釉茶碗, thố hào dứu trà oản) bằng [[đồ gốm Kiến (建窯), thời Nam Tống, thế kỷ 12, Bảo tàng Mỹ thuật Metropolitan (xem dưới đây)]] **Đồ sành**, **gốm sành** hay
nhỏ|350x350px phải|nhỏ|300x300px|Nhà địa chất học của [[Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ|Cục Điều tra địa chất Hoa Kỳ kiểm tra khối đá của đá bọt ở cạnh ven của dòng mạt vụn núi lửa
**Bentonit** là một đất sét phyllosilicat nhôm hút nước, bao gồm chủ yếu là montmorillonit. Nó được Wilbur C. Knight đặt tên năm 1898 theo thành hệ đá phiến sét Benton kỷ Phấn trắng gần
**Chất làm sạch, chất tẩy rửa** hoặc **chất tẩy rửa bề mặt cứng** là những chất (thường là chất lỏng, bột, thuốc xịt, hoặc hạt) được sử dụng để loại bỏ bụi bẩn, bao gồm
**Mali** có tên chính thức là **Cộng hòa Mali,** (; tiếng Bambara: ߡߊߟߌ ߞߊ ߝߊߛߏߖߊߡߊߣ, Latinh hóa: _Mali ka Fasojamana_, , ) là một quốc gia nằm trong lục địa của miền tây châu Phi.
**Khoáng vật silicat** là lớp khoáng vật lớn nhất và quan trọng nhất trong các lớp khoáng vật tạo đá, chiếm khoảng 90% vỏ Trái Đất. Đặc trưng của lớp khoáng vật này là cấu
**Montmorillonit** là một khoáng vật phyllosilicat rất mềm thông thường tạo thành các tinh thể vi thể tạo ra khoáng vật sét. Tên gọi của nó lấy theo Montmorillon ở Pháp. Montmorillonit, một thành viên
**Illit** là một khoáng vật dạng mica, có kích thước cỡ hạt sét, không giãn nở. Illit hoặc là phyllosilicat hoặc aluminosilicat tạo lớp. Cấu trúc của nó được hợp thành từ sự lặp lại
nhỏ|[[Gốm Bát Tràng]] nhỏ|Một thợ gốm tại nơi làm việc ở [[Morena, Ấn Độ ]] nhỏ|Đồ gốm từ [[Vùng đất Székely|Székely Land, Romania, được bán ở Budapest.]] **Đồ gốm** là các sản phẩm chứa đựng
nhỏ|300x300px|Dạng tinh thể đơn của [[insulin rắn.]] **Chất rắn** dạng vật chất khác chất lỏng (các trạng thái khác là chất lỏng, chất khí và plasma). So với các trạng thái vật chất kia, các
phải|Vách núi Gay Head tại [[Martha's Vineyard gần như toàn bộ là đất sét.]] **Đất sét** hay **sét** là một nhóm các khoáng vật phyllosilicat nhôm ngậm nước (xem khoáng vật sét), thông thường có
**Đười ươi** (Danh pháp khoa học: **_Pongo_**) là một chi vượn lớn bản địa của các khu rừng nhiệt đới thuộc Indonesia và Malaysia. Hiện nay phạm vi cư trú của đười ươi chỉ quanh
**Kyanit** là khoáng vật silicat màu xanh đặc trưng xuất hiện phổ biến trong các pecmatit hoặc đá trầm tích bị biến chất giàu nhôm. Kyanit trong các đá biến chất thường là dấu hiệu
**Paegam** (Hán Việt: _Bạch Nham_) là một huyện của tỉnh Ryanggang tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Huyện có địa hình đồi núi và nằm trên dãy núi Trường Bạch, dãy núi
nhỏ|phải|Mô hình một phần cấu trúc [[tinh thể của gibbsit]] **Gibbsit**, Al(OH)3, là một trong những dạng khoáng vật quan trọng của Nhôm hydroxide. Nó thường được đặt là γ-Al(OH)3 (nhưng đôi khi là α-Al(OH)3.).
Trong khoáng vật học, **vết vỡ** là hình dạng và cách sắp xếp của một bề mặt được hình thành khi một khoáng vật bị đập vỡ. Các khoáng vật thường có một vết vỡ
thumb|right|Mẫu đá bảng (~ 6 cm dài và ~ 4 cm cao) **Đá bảng** hay **đá phiến lớp** (tiếng Anh: **slate**, tiếng Pháp: **ardoise**) là một loại đá biến chất đồng nhất phân biến, hạt mịn có
nhỏ|Địa hình Burundi **Vùng địa lý Burundi** nằm ở trung tâm châu Phi, phía đông của Cộng hòa Dân chủ Congo. Tọa độ: . ## Địa lý Burundi có diện tích về bề mặt, trong
nhỏ|[[Đá cẩm thạch Carrara|Mỏ đá Carrara ở Toscana, Ý.]] nhỏ|Mỏ [[đá Portland ở đảo Portland, Anh]] nhỏ|Một mỏ [[cốt liệu bê tông bị bỏ hoang gần Adelaide, Nam Úc]] nhỏ|Mỏ đá ở [[Soignies, tỉnh Hainaut
**Dự án Eden** là một địa điểm rất được ưa chuộng bởi khách du lịch tới Cornwall, Anh. Đó là công trình phức hợp về môi trường quy mô lớn bao gồm hai khu vực
phải|nhỏ|Đất sét polymer. **Đất sét polyme** là một loại đất sét nghệ thuật có cấu tạo từ polyme polyvinyl chloride (PVC). Nó không có các chất khoáng cấu tạo nên chất sét thông thường, nhưng
**Nền kinh tế của Ethiopia** là một nền kinh tế hỗn hợp và chuyển tiếp với một khu vực công lớn. Chính phủ Ethiopia đang trong quá trình tư nhân hoá nhiều doanh nghiệp nhà
**Núi đá vôi Krym** hoặc **núi đá vôi Crimean** (; ; ; ) là một núi đá vôi và khu bảo tồn tự nhiên (zakaznik) tại bán đảo Krym, khu vực được quốc tế công
thumb|Pectin|Pectin, a bio polymer of (among other constituents) [[D-galacturonic acid, shown here in a powder form.]] **Pectin** (tiếng Hy Lạp cổ đại: pēktikós πηκτικός, "đông tụ") là một cấu trúc heteropolysaccharide chứa trong các tế
**Đồ gốm men ngọc** hay **đồ gốm men xanh** là đồ gốm được tráng men màu xanh lục nhạt của ngọc. Men ngọc là một loại men gốm trong suốt, thường với các vết rạn
thumb|Phần có hình chữ nhật màu vàng cho biết vị trí phần chính Đông Bắc Syrtis là Syrtis Major, là một trong những vùng có núi lửa lớn nhất trên sao Hỏa. Phần phía tây