✨Justus von Liebig

Justus von Liebig

Justus von Liebig (22 tháng 5 năm 1803 - 18 tháng 4 năm 1873) là một nhà hóa học người Đức, người đã có những đóng góp to lớn trong lĩnh vực nông nghiệp và hóa sinh học cũng như sự phát triển của hóa hữu cơ. Với tư cách là giáo sư, ông là người đã đưa ra phương pháp dạy định hướng trong phòng thí nghiệm, nhờ những cái tiến trong cách giảng dạy mà ông được xem là một trong những giáo viên hóa xuất sắc nhất từng được biết đến. Von Liebig được biết đến với tư cách là "cha đẻ của ngành công nghiệp phân bón" nhờ công trình của ông trong việc phát hiện ra chất nitrogen như là một thành tố dinh dưỡng quan trọng cho sự tăng trưởng của cây trồng và sau đó von Liegig cũng sáng chế công thức về Quy luật tối thiểu, trong đó nêu lên những ảnh hưởng của các chất dinh dưỡng tới cây trồng.

Tiểu sử

Thời thơ ấu và gia đình

thumb|right| Liebig lúc trẻ Justus Liebig sinh ra là con trai của một nhà buôn bán hóa học và sơn ở Darmstadt. Từ khi còn nhỏ, ông đã thử nghiệm các vật liệu mà ông tìm thấy trong xưởng của cha mình và phát triển một niềm say mê mạnh mẽ về hóa học. Ngoài ra, các thí nghiệm hoá học, được trình bày bằng carnies tại các hội chợ, đã gây ra sự quan tâm của ông, đặc biệt là việc sản xuất đậu Hà Lan, trong đó ông đã gặp chất nổ thủy ngân đầu tiên.

Ở tuổi 13, Liebig sống suốt năm mà không có mùa hè, khi đa số cây lương thực ở bán cầu bắc bị phá hủy bởi mùa đông núi lửa. Đức là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất trong nạn đói toàn cầu đã xảy ra. Nhờ vào sự đổi mới của Liebig trong phân bón và nông nghiệp, nạn đói năm 1816 được biết đến như là "cuộc khủng hoảng cuối cùng lớn nhất trong thế giới phương Tây".

Liebig kết hôn với Henriette "Jettchen" Moldenhauer (1807-1881), con gái của một quan chức nhà nước vào tháng 5 năm 1826. Họ có năm người con, Georg (1827-1903), Agnes (1828-1862), Hermann (1831-1894) Johanna (1836-1925) và Marie (1845-1920).

Nghiên cứu

Qua sự lý giải của cha ông, Justus bắt đầu nghiên cứu hóa học ở Bonn vào mùa thu năm 1819 với Karl Wilhelm Gottlob Kastner, người mà Justus đã từng gặp trong cửa hàng của cha mình, người đã nhanh chóng nhận ra tài năng của ông và đã thuê ông làm trợ lý trong phòng thí nghiệm của mình. Khi Kastner chấp nhận một lời mời đến trường Đại học Erlangen năm 1821, ông đã cùng đi, nơi ông bắt đầu luận án tiến sĩ của mình về mối quan hệ của hóa học khoáng với hóa học thực vật và gia nhập quân đoàn Rhenania I. Tháng 3 năm 1822 Liebig, ông là một thành viên của Hội anh em Bonn và Erlangen năm 1820/22, đã tham gia vào các cuộc biểu tình của các sinh viên có thái độ tự do với chính quyền. Kết quả là ông bị cảnh sát điều tra và phải trốn khỏi nhà.

Giáo viên của ông - Karl Kastner, đã có được một ít thời gian nhờ lời cầu bầu và đề nghị của mình với Grand Duke Ludwig I ở Hesse để Liebig nhận được học bổng hai năm để học tại Đại học Pari ở Sorbonne, sau đó là trung tâm hàng đầu của hóa học. Trong số những thứ khác, ông đã phân tích khoáng chất và tìm hiểu cùng các giáo sư Joseph Louis Gay-Lussac, Louis Jacques Thénard và Louis-Nicolas Vauquelin về những bài học hoá học tiên tiến nhất.

Giáo sư ở Giessen

thumb|right|upright|Justus von Liebig, tranh của Wilhelm Trautschold, năm 1846 Liebig rời Pari để trở lại Darmstadt vào tháng 4 năm 1824. Vào ngày 26 tháng 5 năm 1824, ở tuổi 21 và với lời đề nghị của Humboldt, Liebig trở thành giáo sư tại Đại học Giessen. Cuộc hẹn của Liebig là một phần của một nỗ lực để hiện đại hóa Đại học Giessen và thu hút nhiều sinh viên. Ông nhận được một khoản tiền nhỏ, không có kinh phí phòng thí nghiệm hoặc không được sử dụng các phương tiện.

Để giảm bớt các vấn đề về tài chính, ông đã điều hành một cơ sở kinh doanh tư nhân từ năm 1827 đến năm 1833, trong đó ông đào tạo cùng các giáo sư Hermann Umpfenbach, Friedrich Christian Gregor Wernekink và các trợ lý về dược trợ của Georg Gottlieb Schmidt và các nhà lãnh đạo tương lai của ngành công nghiệp kỹ thuật. Do đó, ông đã đặt nền móng cho tạp chí Annalen der Pharmacie, được thành lập vào năm 1832, sau này được biết đến dưới cái tên Liebig’s Annalen và được Hiệp hội Hoá học Anh đánh giá cao.

Phương pháp giảng dạy, những khám phá và các bài viết của ông nhanh chóng làm ông nổi tiếng khắp châu Âu. Rất nhiều người nước ngoài, bao gồm 84 người Anh và 18 người Mỹ, đã đến Giessen để nghe các bài giảng của Liebig về hóa học và dược phẩm. Các sinh viên quan trọng của ông là Wilhelm von Hofmann, người đã nghiên cứu với Liebig từ năm 1836 đến năm 1845, đã làm tiến sĩ và được trợ tá làm trợ lý, cũng như bác sĩ và nhà hóa học Johann Joseph von Scherer ở Würzburg. Năm 1843 Liebig được bầu vào Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Hoa Kỳ.

Năm 1845, ông được thăng cấp theo đề nghị của giáo sư Grand Duke Ludwig II.

Chuyển đến Munich

Đến năm 1852, khi ông rời khỏi Giessen đến Munich, đã có hơn 700 sinh viên ngành hóa học và dược học nghiên cứu với Liebig.

Tại Munich, Liebig đã được nhiều hiệp hội khoa học trong và ngoài nước bổ nhiệm làm thành viên danh dự hay đã nhận được nhiều danh hiệu và huy chương từ các nhà cai trị cầm quyền trên khắp thế giới. Khi phát triển phân bón superphostphat, ông là đồng sáng lập của "Bayerische Aktiengesellschaft cho hóa chất và sản xuất hóa chất nông nghiệp" (BAG, nhà máy ở Heufeld) với trụ sở chính ở Munich, tồn tại cho đến năm 2012 dưới tên Süd-Chemie và hiện là một phần của Clariant Group Thụy Sĩ. Vào ngày 15 tháng 12 năm 1859, ông được bổ nhiệm làm Chủ tịch Học viện Khoa học Bavarian cho đến khi ông qua đời. Năm 1870 ông được bổ nhiệm làm công dân danh dự của thành phố Munich. Năm 1859 ông cũng được bầu làm thành viên của Viện hàn lâm Khoa học Leopoldina.

Justus Liebig chết vì viêm phổi vào ngày 18 tháng 4 năm 1873 ở Munich và được chôn cất với sự quan tâm lớn của dân chúng vào ngày 21 tháng 4.

Phần mộ

thumb|Justus von Liebig (năm 1860) thumb|Mộ của Liebig nằm trong Nghĩa trang Old Southern thumb|Bức tượng Justus Liebig trên mộ; Bức tượng đồng là bức tượng của nhà điêu khắc Michael Wagmüller

Ngôi mộ của Justus Liebig nằm trong Nghĩa trang Old Southern ở Munich. Ngôi mộ được thiết kế bởi nhà điêu khắc Anselm Sickinger. Bức tượng Justus von Liebig được tạo ra bởi Michael Wagmüller. Ban đầu, bức tượng bán thân được làm bằng đá cẩm thạch và được bảo vệ bằng vỏ thủy tinh. Nó được thay thế bằng một bản sao đồng.

Nghiên cứu khoa học

left|thumb|Máy nén CO2 trong phòng thí nghiệm riêng của Liebig Liebig bắt đầu nghiên cứu khoa học của mình ở Giessen cùng với việc điều tra lò xo Hessian và Bavarian và sử dụng chúng để khai thác muối. Ông nhanh chóng nhận ra rằng các phương pháp phân tích rất dài và cung cấp kết quả tương đối không chính xác.

Ông đã thành công trong nhiều năm nỗ lực để hoàn thiện các máy phân tích, việc xác định thành phần nguyên tố của bộ phận động vật và thực vật bằng bộ máy năm quả bóng năm 1831 đã được phát triển (ban đầu được gọi là bộ máy Kali-Apparat) và tiếp tục làm đơn giản hóa và tăng tốc độ thay đổi đáng kể. Ông cùng với các cộng sự và sinh viên của ông, sau đó đã kiểm tra hàng trăm thực vật, bộ phận cây trồng và nhiều cơ quan và sản phẩm của động vật về thành phần của chúng và công bố kết quả. Khi làm như vậy, ông thực tế đã thiết lập hóa học hữu cơ vì không ai có thể thực hiện được nhiều cuộc điều tra chính xác và dễ kiểm tra. thumb|Liebigs Kali-Apparat Cùng với người bạn Friedrich Wöhler, người đã làm việc tại Höherer Gewerbeschule (Polytechnic) ở Kassel (và năm 1836 một cuộc gọi cho Chủ tịch Hóa học và Dược phẩm ở Göttingen), ông đã phát triển lý thuyết triệt để vào năm 1832, giải thích nhiều loại chất mà chỉ gồm có hydro, oxy và cacbon

Quan tâm chính của ông trong suốt thời gian Giessen là thúc đẩy nông nghiệp với mục đích của chống lại nạn đói đôi khi tàn phá thời đó. Những phát hiện của ông trong lĩnh vực này ông đã tóm tắt vào năm 1840 và 1842 trong hai tác phẩm: Hoá hữu cơ trong ứng dụng của nó cho nông nghiệp và sinh lý học, được gọi tắt là AgriculturchemieHóa học Động vật hoặc hóa học hữu cơ trong ứng dụng của nó đối với sinh lý học và bệnh lý học. Hai cuốn sách này đã gây ra một sự khuấy động to lớn, không chỉ giữa các nhà khoa học, mà còn trong số tất cả những người được giáo dục về thời của ông. Hóa học nông nghiệp, trong đó ông đã thúc đẩy phân bón và giải thích tầm quan trọng của chúng đối với chất lượng và năng suất cây trồng, được đưa ra 9 phiên bản và cũng được dịch ra 34 thứ tiếng.

Trong phòng thí nghiệm riêng của mình, ông đã cống hiến cho mình từ năm 1846 đến năm 1849. Sự phát triển của một phân bón phosphat hòa tan trong nước, cùng với các học sinh người Anh Edward Frankland và James Sheridan Muspratt. Kết quả là superphothat là phân bón phosphate được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới. Phân bón đã cải thiện đáng kể thu hoạch và do đó cung cấp lương thực trong nửa sau của thế kỷ 19.

Liebig đã được công nhận trên toàn thế giới thông qua các nghiên cứu của ông tại Viện Giessen, những phương pháp giảng dạy tiên phong của ông, đặc biệt là các bài giảng thực nghiệm của ông và các ấn phẩm của ông trong lĩnh vực hoá học, dược, sinh lý học và nông nghiệp. Phòng thí nghiệm Giessen của ông trở thành "thánh địa" cho các nhà hóa học từ khắp nơi trên thế giới. thumb|Fünf-Kugel-Apparat (moderner Nachbau) Ở Munich, ông chuyển sang xây dựng hoàn toàn theo kiến trúc xây dựng mong muốn của mình và Hóa học. Trong những năm sau đó, ông đã giảng bài cho sinh viên, nhưng ở một mức độ thấp hơn nhiều. Phần chính của bài giảng và thực tập sinh ông đã để lại trợ lý của mình.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Justus von Liebig** (22 tháng 5 năm 1803 - 18 tháng 4 năm 1873) là một nhà hóa học người Đức, người đã có những đóng góp to lớn trong lĩnh vực nông nghiệp và
**August Wilhelm von Hofmann** (8 tháng 4 năm 1818 ở Giessen - ngày 5 tháng 5 năm 1892 ở Berlin) là nhà hóa học người Đức và là nhà tiên phong quan trọng trong việc
**Quy luật cực tiểu của Liebig**, thường được gọi đơn giản là **Quy luật Liebig** hoặc **Quy luật cực tiểu**, là một nguyên lý được Carl Sprengel phát triển trong khoa học nông nghiệp năm
nhỏ|Huy chương Liebig được trao cho Rudolf Knietsch vào năm 1904. **Huy chương Liebig** là một giải thưởng của Verein Deutscher Chemiker (_Hội các nhà hóa học Đức_) được trao hàng năm cho những đóng
**Johann Friedrich Wilhelm Adolf von Baeyer** (; (31 tháng 10 năm 1835 - 20 tháng 8 năm 1917) là một nhà hóa học người Đức. Năm 1905, ông được trao Giải Nobel hóa học. Ông
Gay-Lussac và [[Jean-Baptiste Biod|Biod trên một khinh khí cầu, 1804. Tranh cuối thế kỷ XIX.]] **Joseph Louis Gay-Lussac** (6 tháng 12 năm 1778 – 9 tháng 5 năm 1850) là một nhà hóa học, nhà
**Khoa học đất** là môn khoa học chuyên nghiên cứu về đất, coi đối tượng nghiên cứu này như là một tài nguyên thiên nhiên trên bề mặt của Trái Đất, nghiên cứu khoa học
thumb|upright=1.5|thumbtime=10|Phản ứng giữa [[acid clohydric dạng khí và amonia (base), tạo thành amoni chloride màu trắng.]] Một **phản ứng acid–base** là một phản ứng hóa học xảy ra giữa một acid và một base. Nhiều
**Acetaldehyde** (tên hệ thống: **ethanal**) là một hợp chất hữu cơ với công thức hóa học CH3CHO, đôi khi được viết tắt thành MeCHO (Me = methyl). Nó là một trong các aldehyde quan trọng
**Maximilian II của Bayern** (28 tháng 11 năm 1811 – 10 tháng 3 năm 1864) có dòng dõi nhà Wittelsbach, là vua của Bayern từ năm 1848 đến năm 1864. Ông là con trai của
**Danh sách các nhà phát minh** được ghi nhận. ## Danh sách theo bảng chữ cái ### A * Vitaly Abalakov (1906–1986), Nga – các thiết bị cam, móng neo leo băng không răng ren
**Hóa sinh** ( hay ) là phân ngành nghiên cứu các quá trình hóa học bên trong và liên quan tới sinh vật sống. Là một phân ngành của cả hóa học và sinh học,
**Niên biểu hóa học** liệt kê những công trình, khám phá, ý tưởng, phát minh và thí nghiệm quan trọng đã thay đổi mạnh mẽ vốn hiểu biết của nhân loại về một môn khoa
nhỏ|Một máy rải phân bón cũ nhỏ|Một máy rải phân bón lớn và hiện đại tại Mỹ. Hình chụp năm 1999 **Phân bón** là "chất dinh dưỡng" do con người bổ sung cho cây trồng.
**Acid fulminic** là một acid hữu cơ có công thức tổng quát là HCNO, và công thức phân tử là HCNO được Justus von Liebig phát hiện năm 1824. Acid này là đồng phân của
**Chloroform**, hay còn gọi là **trichloromethan** và **methyl trichloride**, và một hợp chất hoá học thuộc nhóm trihalomethan có công thức CHCl3. Nó không cháy trong không khí, trừ khi tạo thành hỗn hợp với
**Axit benzoic**, C7H6O2 (hoặc C6H5COOH), là một chất rắn tinh thể không màu và là dạng axit cacboxylic thơm đơn giản nhất. Tên của nó được lấy theo gum benzoin, là một nguồn để điều
Dân số thế giới: hơn 1 tỷ người **Năm 1803** (**MDCCCIII**) là một năm thường bắt đầu vào thứ Bảy theo lịch Gregory (hay một năm thường bắt đầu vào thứ Năm theo lịch Julius
nhỏ|Quá trình lên men đang diễn ra: bong bóng [[carbon dioxide tạo thành một lớp bọt ở bề mặt hỗn hợp lên men..]] **Lên men** là quá trình trao đổi chất tạo ra thay đổi
Trong hóa học, các **đồng phân** là hợp chất hữu cơ có cùng công thức phân tử. Điều đó tương tự như việc coi chúng có công thức cấu trúc (công thức hóa học khai
**Robert Wilhelm Eberhard Bunsen** (ngày 31 tháng 3, năm 1811 – ngày 16 tháng 8, năm 1899) là nhà hóa học người Đức. Ông nghiên cứu quang phổ phát xạ của các nguyên tố bị
**Henri Victor Regnault** (21 Tháng 7 năm 1810 - 19 tháng 1 năm 1878) là một nhà hóa học và nhà vật lý người Pháp nổi tiếng với các phép đo cẩn thận của ông
**Vinyl chloride** is là một hợp chất chloride hữu cơ với công thức hóa học H2C=CHCl. Tên khác của chất này là **vinyl chloride monomer** (**VCM**) hoặc **chloroethene**. Hợp chất không màu này là một
**Papaverine** (_papaver trong tiếng_ Latin, "poppy") là một loại thuốc chống co thắt _opal_ alkaloid, được sử dụng chủ yếu trong điều trị co thắt nội tạng và co thắt mạch máu (đặc biệt là
**Acid linoleic** là một hợp chất hữu cơ có công thức hóa học . Cả hai nhóm anken đều là đồng phân cis-trans. Loại acid béo thỉnh thoảng được ký hiệu là 18:2 (n-6) hoặc
**Tyrosine** (kí hiệu là **Tyr** hoặc **Y**) hoặc 4-hydroxyphenylalanine là một trong 20 amino acid tiêu chuẩn được sử dụng bởi các tế bào để tổng hợp protein. Đây là một amino acid _không_ thiết
**Giới hạn sinh thái** là khoảng giá trị của một nhân tố sinh thái mà sinh vật ở trong khoảng giá trị đó thì mới có thể tồn tại và phát triển. Ví dụ: Cá
thumb|right|348x348px|Bìa của bài thơ có chủ đề tiến hóa của [[Erasmus Darwin, _Temple of Nature_ cho thấy một nữ thần vén bức màn bí ẩn của thiên nhiên (bên trong là Artemis). Tượng trưng và