✨Joseph Haydn

Joseph Haydn

Franz Joseph Haydn (31 tháng 3 năm 1732 – 31 tháng 5 năm 1809) là một nhà soạn nhạc người Áo và là một trong những nhà soạn nhạc xuất chúng của nền âm nhạc cổ điển, còn được gọi là "người cha của giao hưởng" và "cha đẻ của tứ tấu dây". Ông cũng có nhiều đóng góp cho thể loại tam tấu piano và hình thức sonata.

Trong thời kỳ dài sinh sống ở Áo, Haydn là một nhà soạn nhạc cung đình cho gia tộc Eszterházy. Tách biệt với các nhà soạn nhạc và các xu hướng âm nhạc khác cho đến tận cuối đời. Ông cũng là thầy dạy của Wolfgang Amadeus Mozart và của Ludwig van Beethoven.

Joseph Haydn là anh của Michael Haydn, cũng là một nhà soạn nhạc được tôn kính, và Johann Evangelist Haydn một ca sĩ.

Tiểu sử

Thời trẻ

phải|Bản đồ những nơi Joseph Haydn từng sinh sống Joseph Haydn sinh ở một làng thuộc Rohrau của Áo gần biên giới Hungary. Cha của ông là Mathias Haydn, chủ một tiệm sửa xe kéo và sau này chịu trách nhiệm cho một chợ làng. Mẹ của Haydn, bà Maria Koller là một nhà tạo hình, trước kia từng làm đầu bếp cho dinh thự của Bá tước Harrach - người đứng đầu trong giới quý tộc làng Rohrau. Cả cha và mẹ ông đều không có khả năng xướng âm, tuy nhiên ông Mathias là một nhạc sĩ nhạc folk nhiệt tình, khoảng thời gian đi làm thuê thời trai trẻ đã dạy ông cách chơi đàn hạc. Theo hồi tưởng của Haydn thì gia đình ông thời thơ ấu luôn ngập tràn âm nhạc, họ thường xuyên hát với nhau và đôi khi hát với hàng xóm.

Cha mẹ Haydn sớm nhận ra tài năng âm nhạc của ông và cũng không khó để họ nhận thấy rằng ông sẽ không thể nào phát huy hết khả năng của mình nếu cứ ở trong làng Rohrau mãi. Chính vì lý do đó mà họ đã chấp nhận lời đề nghị của Johann Matthias Frankh, một người bà con đồng thời cũng là hiệu trưởng và còn là nhạc trưởng của một nhạc viện tại Hainburg. Qua đó Haydn có thể sống trọ tại nhà ông và được ông dạy thêm về âm nhạc. Sau đó Haydn đã lên đường đi đến Hainburg (cách Rohrau 7 dặm), và kể từ đó ông mãi mãi không bao giờ được sống cùng cha mẹ nữa, khi đó Haydn được 6 tuổi.

Sống chung nhà với Frankh không phải là một chuyện đơn giản đối với một cậu bé như Haydn, cậu thường xuyên bị bỏ đói và chịu nhiều đau khổ khác. Tuy nhiên, con đường âm nhạc của Haydn cũng bắt đầu từ đây, ông mau chóng sử dụng được đàn vĩ cầm và đàn clavico. Không lâu sau, vào một ngày Chủ nhật đẹp trời nọ, người dân Hainburg cũng được nghe giọng ca của Haydn vang lên trong dàn hợp xướng của nhà thờ.

Giọng ca của Joseph Haydn có thể cuốn hút mạnh mẽ nhiều người, và Georg von Reutter là một trong số đó. Ông là giám đốc âm nhạc của Nhà thờ Thánh Stephen tại Viên, trong chuyến đi về các vùng quê của nước Áo để tìm kiếm những nam "viên ngọc thô" trong đội hát kinh, giọng ca của Haydn đã khiến ông phải trầm trồ thán phục. Haydn cuối cùng cũng vượt qua được kỳ sát hạch của Reutter, và sau đó nhanh chóng chuyển đến thành phố Wien, nơi ông hát ròng rã trong chín năm kế tiếp, và làm việc bốn năm nữa trong công ty của em trai ông, Michael Haydn.

Cũng giống như Frankh trước đó, Reutter không thường xuyên quan tâm đến tình trạng ăn uống của Haydn như thế nào. Cậu trẻ Haydn chỉ được quan tâm đến trước mỗi buổi diễn ở sân khấu âm nhạc, nơi các ca sĩ đôi khi có dịp được ăn một cách ngấu nghiến món ăn nhẹ của mình cho đỡ đói. Reutter cũng ít có những hoạt động để giúp phát triển tài năng của các học trò của mình. Tuy nhiên, Nhà thờ Thánh Stephen là một trong những học viện âm nhạc đứng đầu châu Âu lúc bấy giờ với vô số các màn trình diễn âm nhạc mới lạ, đặc sắc do những nhà soạn nhạc hàng đầu biên soạn. Haydn nhờ đó cũng được học hỏi rất nhiều bằng các hình thức quan sát, theo dõi hay đơn giản như xin được phục vụ các nhạc công, nhạc sĩ chuyên nghiệp nơi đây.

Kiếm sống như một nghệ sĩ tự do

trái|Nhà thờ Thánh Stephen, [[Viên, Áo]] Vào năm 1749, Haydn đã quá lớn để có thể hát trong các dàn hợp xướng nữa, vì cớ đó mà ông bị sa thải. Ông đành phải lang thang trên các con phố để kiếm sống mà chẳng có nổi một chốn nương thân. Nhưng cuối cùng thần may mắn cũng mỉm cười với Haydn, ông làm quen được với Johann Michael Spangler, người này đã cho ông ở chung căn phòng vốn đã đông đúc của gia đình mình chỉ vài tháng sau đó. Haydn ngay lập tức bắt đầu sự nghiệp đầy gian truân của mình với công việc của một nghệ sĩ tự do.

Trong suốt quãng thời gian khó nhọc này, Haydn làm nhiều việc khác nhau: từ một giáo viên nhạc đến người hát khúc nhạc chiều và cuối cùng là phụ tá cho Nicola Porpora - một soạn giả lừng danh người Ý; Haydn học được "những nguyên tắc thật sự của một tác phẩm".

Khi đã trở thành thành viên của một dàn đồng ca, Haydn không hề nhận được sự huấn luyện nghiêm túc nào về các bài học lý thuyết âm nhạc cũng như được làm quen với các tác phẩm hay, ông nhận thấy đó là một sự lãng phí thời gian. Để cải thiện thêm khả năng của mình, ông đã cố thực hành thêm giai điệu cho các bản nhạc dựa trên các bài tập trong cuốn Gradus ad Parnassum của Johann Joseph Fux, và cẩn thận học theo các tác phẩm của Philipp Emanuel Bach - người mà sau này Haydn công nhận là có tầm ảnh hưởng quan trọng với ông.

Khi đã có nhiều tiến bộ, Haydn bắt đầu được biết đến trong giới nhạc sĩ, đầu tiên với tư cách là tác giả của vở opera Der krumme Teufel (tạm dịch: Con quỷ ẻo lả). Tác phẩm này được viết cho diễn viên hài Johann Joseph Felix Kurz, người được khán giả sân khấu biết đến nhiều hơn với cái tên "Bernardon". Công việc của ông thành công nhất ở năm 1753 bởi các nhân viên kiểm duyệt. Haydn biết điều đó nhưng không hề tức giận, ông chỉ đơn giản đem những tác phẩm không được đăng ký của mình ra xuất bản và bày bán ở các cửa hàng nội địa.

Với sự thăng tiến của mình trong xã hội, Haydn được sự tài trợ từ các nhà quý tộc lúc bấy giờ, đây là một việc rất quan trọng trong sự nghiệp soạn giả của ông. Bà Bá tước Thun, sau khi thưởng thức một trong các tác phẩm của Haydn, đã cho gọi ông đến và bổ nhiệm ông làm thầy dạy hát và đàn cho bà. Năm 1756, Nam tước Carl Josef Fürnberg chọn Haydn phục vụ trong điền trang của mình - Weinzierl - nơi Haydn viết những bản tứ tấu của mình bằng đàn dây. Sau này Fürnberg giới thiệu Haydn đến với Bá tước Morzin, vào năm 1757, ông này trở thành ông chủ đầu tiên mà Haydn làm việc cho toàn thời gian.

Những năm tháng là một "Kapellmeister"

phải|Ảnh chân dung Joseph Haydn do [[Ludwig Guttenbrunn thể hiện vào năm 1770]] Bá tước Morzin gọi công việc của Haydn khi phục vụ cho ông là Kapellmeister, hay "giám đốc âm nhạc". Ông chỉ huy một ban nhạc nhỏ của bá tước và đồng thời viết bản giao hưởng đầu tiên cho đội nhạc công này.

Năm 1760, nhờ các mối quan hệ trong công việc của một Kapellmeister, Joseph Haydn đã kết hôn. Vợ ông tên là Maria Anna Aloysia Apollonia Keller (1729–1800), chị gái của Theresa (1733-?), người mà Haydn từng yêu say đắm trước đó. Cuộc hôn nhân của họ không mấy hanh phúc, nhưng vào thời đó luật pháp không cho ly dị nên mà cả hai đành phải chịu đựng. Hai người không sinh con, và cả hai đều có người tình riêng.

Khi tình hình tài chính của Bá tước Morzin rơi vào khủng hoảng, Haydn buộc phải giã từ sự nghiệp âm nhạc của mình. May mắn thay, Haydn nhanh chóng nhận một công việc tương tự vào năm 1761, lần này ông là "phó Kapellmeister" cho gia tộc Esterházy, một trong những gia đình có thế lực và quan trọng nhất trong Đế chế Áo lúc bấy giờ. Khi Gregor Werner - Kapellmeister tiền nhiệm - qua đời vào năm 1766, Joseph Haydn được trao chức Kapellmeister.

trái|Dinh thự Eszterháza từ trên cao Như một "thành viên chính thức" của Gia tộc Esterházy, ông được mặc trang phục truyền thống của họ mỗi khi đi cùng họ, quan trọng nhất là lần ông cùng gia đình này về trang trại lâu đời thuộc dinh thự Schloss Esterházy ở Eisenstadt và sau này là Eszterháza, một dinh thự tráng lệ mới được xây tại vùng thôn quê Hungary vào năm 1760. Haydn có rất nhiều việc quan trọng phải làm, bao gồm soạn những bản giao hưởng mới, điều hành ban nhạc của Gia tộc Esterházy, chơi nhạc cho ông bầu đồng thời cũng là khách quen của ông, và cuối cùng là đối mặt với áp lực từ công việc sản xuất nhạc opera. Mặc cho áp ực công việc quá cao như vậy, nhưng nó là một cơ hội hấp dẫn để Haydn dễ dàng thăng tiến. Những hoàng tử trong Gia tộc Esterházy (anh cả là Paul Anton, kế đến là Nikolaus I) là những người am hiểu âm nhạc sâu sắc, do đó họ đánh giá cao công việc của Haydn và quyết định giao thêm công việc hằng ngày cho cái ban nhạc giao hưởng nho nhỏ của ông.

Trong suốt gần 30 năm phục vụ tại cung đình Esterházy, Haydn đã cho ra một "cơn lốc" những tác phẩm, phong cách âm nhạc của ông cũng ngày một phát triển. Công chúng cũng biết đến các tác phẩm của ông nhiều hơn. Dần dần, Haydn viết các bản giao hưởng dành cho cộng đồng cũng nhiều như cho ông chủ của mình, một vài tác phẩm quan trọng được ra đời trong giai đoạn này, điển hình là bản Paris symphonies (1785–1786), hay phiên bản cổ điển của tác phẩm The Seven Last Words of Christ (1786) được giới quý tộc nước ngoài đặt hàng.

Mặc dù vậy, về sau Haydn bắt đầu cảm thấy biệt lập và cô đơn, cũng vì ông đã tiêu tốn hầu hết những năm dài tại Esterháza, nơi này quá xa Wien, xa hơn so với nơi gần hơn là Eisenstadt. Haydn rất mong đợi được trở lại Wien, nơi có bạn bè và người thân của ông ở đó.

phải|Hoàng tử [[Nikolaus Esterházy, ông bầu quan trọng nhất của Haydn]] Trong số đó có một người rất quan trọng với Haydn, đó là bà Maria Anna von Genzinger (1750-1793), vợ của Hoàng tử Nikolaus sống tại Wien, người sau này trở nên gần gũi, có lý tưởng thuần khiết và là người một nhà với ông vào năm 1789. Haydn tường hay viết thư cho Maria, thổ lộ sự cô đơn trống vắng của ông tại Esterháza và qua đó bày tỏ niềm hạnh phúc của ông mỗi khi có dịp được ghé thăm bà tại Wien; sau này Haydn viết thư cho bà thường xuyên từ London. Cái chết sớm của bà vào năm 1793 là một cú sốc nặng với ông, và bản giao hưởng F minor variations từ piano của ông kể về cái chết của bà.

Một người bạn khác của Haydn ở Wien là Wolfgang Amadeus Mozart, ông gặp người này vào năm 1784. Theo lời kể của Michael Kelly và một số người thì hai nhà soạn nhạc danh tiếng này đã cũng nhau chơi đàn tứ tấu. Haydn đã thật sự ấn tượng trước tài năng của Mozart và ca ngợi không tiếc lời với mọi người về ông này. Hiển nhiên là Mozart cũng rất quý trọng Haydn, điều này thể hiện qua sáu bản tứ tấu mà ông tặng cho Haydn, ngày nay nó được gọi là Những bản tứ tấu "Haydn". Muốn biết thêm chi tiết, xem Haydn và Mozart.

Những chuyến đi đến London

Năm 1790, Hoàng tử Nikolaus qua đời, ông được một người không hề thích âm nhạc thừa kế, người này sau đó giải tán đội nhạc trong cung điện và chỉ chấp nhận trả cho Haydn một số tiền nhỏ gọi là "lương hưu". Hết nhiệm vụ, Haydn nhận được lời mời từ Johann Peter Salomon, một ông bầu người Đức, đến viếng thăm nước Anh và dẫn dắt một ban nhạc lớn chơi những bản giao hưởng mới.

Hai chuyến đi (1791-1792) và (1794-1795) của Haydn thành công rực rỡ. Khán thính giả lũ lượt đến xem những buổi diễn của ông; sự nổi tiếng của ông cũng tỉ lệ thuận với mức lợi nhuận sau mỗi buổi trình diễn. Charles Burney kể về buổi hòa tấu đầu tiên:"Một mình Haydn chơi đàn dương cầm; âm hưởng của nó làm cho tất cả khán giả phải giật mình, giống như họ được nghe một loại nhạc cụ khác với bất cứ loại nhạc cụ nào họ đã từng nghe trên nước Anh."

Nhạc cụ

Một cây đàn fortepiano hiệu “[https://www.greifenberger-institut.de/dt/wissenswertes/besaitete-tasteninstrumente/fortepiano-bis-1800/anton-walter.php Anton Walter in Wien]” mà Haydn từng được nhà soạn nhạc sử dụng hiện được trưng bày ở Haydn-Haus ở Eisenstadt. Tại Viên năm 1788 nhà soạn nhạc đã mua cho mình một cây đàn fortepiano do Wenzel Schantz chế tạo. Khi Haydn đến thăm London lần đầu tiên, nhà chế tạo đàn piano người Anh John Broadwood đã gửi tặng cho ông một cây đại dương cầm.

Danh sách đĩa nhạc

  • Alan Curtis. Joseph Haydn. Keyboard Sonatas. Fortepiani 1796 Walter, 1790 Schantz
  • Ronald Brautigam with Concerto Copenaghen under Lars Ulrik Mortensen. Joseph Haydn Concertos. Fortepiano Walter (Paul McNulty)
  • Robert Levin with Vera Beths and Anner Bylsma. Joseph Haydn. The Last 4 Piano Trios: H 15 no 27-30. Fortepiano Walter (Paul McNulty)
  • Andreas Staier. Joseph Haydn. Sonatas and Variations. Fortepiano Walter (Christopher Clarke)
  • Jos van Immerseel. Wolfgang Amadeus Mozart, Joseph Haydn. Fortepiano Sonatas. Fortepiano Walter (Christopher Clarke)

Mối quan hệ với Mozart

Khoảng năm 1781 Haydn đã có mối quan hệ bạn hữu với Mozart.

Các tác phẩm

  • Thể loại giao hưởng: : Giao hưởng số 6: Buổi sáng : Giao hưởng số 7: Buổi trưa : Giao hưởng số 8: Buổi chiều : Giao hưởng số 31: Bản giao hưởng với các tín hiệu của kèn Cor : Giao hưởng số 44: Tang lễ : Giao hưởng số 45: Từ biệt : Giao hưởng số 82-87: 6 giao hưởng Paris : Giao hưởng số 92: Giao hưởng Oxford : 12 giao hưởng London
  • Nhiều Bộ lễ và Oratorio "Stabat Mater", "Creation", "Seasons",...
  • 6 tứ tấu Nga
  • Concerto dành cho đàn phím, cung Rê thứ

Những người cùng thời

  • Luigi Boccherini
  • Andrea Luchesi – Luchesi authorship controversy
  • Giovanni Battista Cirri
  • Gottfried van Swieten
  • Johann Peter Salomon
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Franz Joseph Haydn** (31 tháng 3 năm 1732 – 31 tháng 5 năm 1809) là một nhà soạn nhạc người Áo và là một trong những nhà soạn nhạc xuất chúng của nền âm nhạc
Dưới đây là danh sách các bản giao hưởng của nhà soạn nhạc vĩ đại người Áo Joseph Haydn. Trong danh sách này, có hai chùm bản giao hưởng đáng chú ý, đó là giao
nhỏ|phải|Joseph Haydn và Wolfgang Amadeus Mozart Có lẽ ít mối quan hệ nào trong lịch sử nhạc cổ điển đặc biệt và sâu sắc như mối quan hệ giữa Joseph Haydn và Wolfgang Amadeus Mozart.
**Johann Michael Haydn** (; sinh ngày 14 tháng 9 năm 1737 - mất ngày 10 tháng 8 năm 1806) là nhà soạn nhạc người Áo thời kỳ cổ điển và là em trai của Franz
**Các bản giao hưởng London** là các bản giao hưởng được nhà soạn nhạc người Áo Joseph Haydn sáng tác sau hai lần ghé thăm thành phố này vào các năm 1791-1792 và 1794. Chúng
**Các bản giao hưởng Paris** là các bản giao hưởng được nhà soạn nhạc người Áo Joseph Haydn viết cho thủ đô của quốc gia Pháp sau một lần ghé thăm nước này vào năm
thumb|Chân dung [[Joseph Haydn (1791)]] **Giao hưởng số 101 cung Rê trưởng** hay còn gọi là **Giao hưởng đồng hồ** là bản giao hưởng được nhà soạn nhạc Joseph Haydn viết vào năm 1793 hoặc
**Tứ tấu đàn dây, Op. 50** (Hob. III/44–49, L. 36–41), là một tác phẩm sáng tác năm 1787 của nhà soạn nhạc Joseph Haydn. Bộ sáu tác phẩm tứ tấu này được sáng tác dành
nhỏ|Haydn khoảng năm 1791 **Giao hưởng số 94 cung Sol trưởng** hay còn gọi là **Giao hưởng giật mình** là bản giao hưởng được nhà soạn nhạc người Áo Joseph Haydn sáng tác vào năm
**Giao hưởng số 2, cung Đô thứ ** là bản giao hưởng thứ hai của nhà soạn nhạc vĩ đại người Áo Joseph Haydn. Bản giao hưởng này được tin là được viết trong khoảng
thumb|Cung điện Esterhazy trên đường Wallner trong thành phố [[Viên là nơi trình diễn ra mắt bản giao hưởng này.]] **Giao hưởng số 6 cung Rê trưởng** hay còn gọi là **Giao hưởng buổi sáng**
**Concerto cho vĩ cầm số 4 cung Sol trưởng** (Hob. VIIa/4) của Joseph Haydn là một trong ba bản concerto vĩ cầm còn sót lại của nhà soạn nhạc. ## Bối cảnh sáng tác Có
**Joseph Martin Kraus** (1756-1792) là nhà soạn nhạc người Thụy Điển gốc Đức. Ông được người đời tôn vinh là "Mozart của Thụy Điển" và có một cuộc đời khá giống nhà soạn nhạc người
**Rohrau** là một thị xã trong bang Niederösterreich, ở nước Áo. Đô thị này có diện tích 20,47 km², dân số năm 2001 là 1455 người. Rohrau nằm ở khu vực công nghiệp của bang,
**Giao hưởng số 45 cung Fa thăng thứ** hay còn gọi là **Giao hưởng từ biệt** (tiếng Đức: **Abschieds-Symphonie**) là bản giao hưởng được nhà soạn nhạc người Áo Joseph Haydn viết vào năm 1772.
**Giao hưởng số 1, cung Rê trưởng** là bản giao hưởng đầu tiên trong sự nghiệp của nhà soạn nhạc vĩ đại người Áo Joseph Haydn. Ông viết bản nhạc này trong thời gian làm
nhỏ|phải **Nikolaus I, Hoàng tử Esterházy** (tiếng Hungary: **Esterházy I. Miklós**, tiếng Đức: **Nikolaus I. Joseph Fürst Esterhazy**) (18 tháng 12 năm 1714-28 tháng 9 năm 1790), hay còn được gọi là **Nikolaus Esterházy** là
**Giao hưởng số 92, cung Sol trưởng** hay còn gọi là **Giao hưởng Oxford** là bản giao hưởng của nhà soạn nhạc người Áo Joseph Haydn. Sở dĩ có tên gọi là Oxford là vì
**Giao hưởng số 104 cung Rê trưởng** hay còn gọi là **Giao hưởng London** là bản giao hưởng cuối cùng trong 12 bản giao hưởng London của nhà soạn nhạc người Áo Joseph Haydn, cũng
**Giao hưởng số 5, cung La trưởng** là bản giao hưởng thứ năm trong sự nghiệp của nhà soạn nhạc Joseph Haydn. Bản giao hưởng được tin là được viết trong khoảng thời gian 1760-1762.
**Joseph** là tên gọi của nhiều nhân vật nam giới. **Joseph** có thể đề cập đến: *Joseph Haydn *Joseph Fourier *Joseph II *Joseph Goebbels *Joseph Johnston *Joseph (Cựu Ước) *Joseph (Tân Ước) *Thánh Giuse *Joseph
**Giao hưởng số 22 cung Mi giáng trưởng** hay còn gọi là **Giao hưởng nhà triết học** là bản giao hưởng của nhà soạn nhạc người Áo Joseph Haydn. Ông sáng tác tác phẩm này
**Giao hưởng số 8 cung Sol thứ** hay còn gọi là **Giao hưởng buổi tối** (tiếng Pháp: **Le soir** (tên tiếng Pháp phổ biến hơn cả)) là bản giao hưởng của nhà soạn nhạc người
thumb|Cung điện Esterhazy trên đường Wallner trong thành phố [[Viên là nơi trình diễn ra mắt bản giao hưởng này.]] **Giao hưởng số 7 cung Đô trưởng** hay còn gọi là **Giao hưởng buổi trưa**
**Đô trưởng** (ký hiệu là **C**), hay **Si thăng trưởng** (ký hiệu là **B**), là một cung thể trưởng dựa trên nốt Đô (C), tức Si thăng (B), bao gồm các nốt sau: **Đô** (**C**),
**Wolfgang Amadeus Mozart** (; tên đầy đủ là **Johannes Chrysostomus Wolfgangus Theophilus Mozart** (27 tháng 1 năm 1756 – 5 tháng 12 năm 1791) là nhà soạn nhạc người Áo. Ông là một trong những
**Bão táp và xung kích** (tiếng Đức: **Sturm und Drang**, hay còn hiểu cụm từ này là **Bão táp và thúc giục** hoặc **Bão táp và căng thẳng**) là trào lưu nghệ thuật nổi bật
nhỏ|Op.2 của [[Joseph Haydn - Ảnh chụp trang tổng phổ đầu của bản nhạc cũ "Sonare opus 2 n°1" của ông tại một cuộc đấu giá nghệ thuật ở Bỉ.]] **Opus** (từ nguyên gốc tiếng
**Ludwig van Beethoven** (rửa tội ngày 17 tháng 12 năm 1770 – 26 tháng 3 năm 1827) là một nhà soạn nhạc cổ điển người Đức. Ông là một hình tượng âm nhạc quan trọng
**Klemens Wenzel Lothar von Metternich** (15 tháng 5 năm 1773 – 11 tháng 6 năm 1859), được gọi ngắn gọn là **Klemens von Metternich** hoặc **Vương công Metternich**, là một chính khách và nhà ngoại
Khu phố cổ Salzburg và Pháo đài Hohensalzburg **Salzburg** (Tiếng Đức Áo: ; ; nghĩa đen là "Salt Fortress" hay "Pháo đài muối"; tiếng Bayern: _Soizbuag_) là thủ phủ của tiểu bang cùng tên thuộc
**Josep Ferran Sorts i Muntades** (1778-1839), thường được biết đến là **Fernando Sor**, là nhà soạn nhạc, nghệ sĩ guitar người Tây Ban Nha. ## Tiểu sử ### Xuất thân và thời thơ ấu Fernando
**Der krumme Teufel** (tiếng Việt: **Con quỷ què** hoặc **Con quỷ ẻo lả**) là vở opera đầu tiên của nhà soạn nhạc đại tài người Áo Joseph Haydn. Đây là vở opera hài và là
[[Dàn nhạc giao hưởng Việt Nam trong buổi hòa nhạc tổ chức tại Nhà hát Lớn Hà Nội]] **Giao hưởng** là các tác phẩm lớn trong nền âm nhạc cổ điển phương Tây, thường được
Thời kỳ cổ điển trong âm nhạc phương Tây thường được chấp nhận là bắt đầu vào khoảng năm 1730 và kéo dài cho tới 1820. Tuy nhiên, thuật ngữ âm nhạc cổ điển được
**Ariana a Naxos** là bản cantata mang tính chất kịch tính của nhà soạn nhạc người Áo Joseph Haydn. Haydn đã viết bản này vào năm 1790 cho giọng nữ cao và đàn clavecin hoặc
**Franz II** (tiếng Anh: Francis II; 12 tháng 2 năm 1768 – 2 tháng 3 năm 1835) là Hoàng đế cuối cùng của Đế quốc La Mã Thần thánh (1792 – 1806) với đế hiệu
**Sol trưởng** (được ký hiệu là **G**) là một cung trưởng dựa trên nốt **Sol**, bao gồm các nốt: **Sol** (G), La (A), Si (B), Đô (C), Rê (D), Mi (E), Fa thăng (F) và
**Ignace Joseph Pleyel** (tiếng Pháp: [plɛjɛl]; tiếng Đức: [ˈplaɪl̩]; sinh 18 tháng 6 năm 1757 - mất 14 tháng 11 năm 1831) là một nhà soạn nhạc người Pháp gốc Áo và nhà chế tạo
thumb|Nốt nhạc có một dấu chấm dôi **Dấu chấm dôi** là một ký hiệu trong hệ thống ký hiệu nhạc phương Tây, có hình dạng là một dấu chấm nhỏ và được viết ngay bên
**Wynton Learson Marsalis** (sinh 18 tháng 10 năm 1961) là một tay chơi kèn trumpet và nhà sáng tác nhạc jazz nổi tiếng của Mỹ hiện nay. Ông cũng lừng danh trong lãnh vực nhạc
**Ridolfo Luigi Boccherini** (Lucca, Ý, 19 tháng 1 năm 1743 – Madrid, Tây Ban Nha, 28 tháng 5 năm 1805) là nhà soạn nhạc người Ý trong thời chuyển giao giữa hai thời kỳ âm
nhỏ|300x300px|[[Tứ tấu dây Fitzwilliam]] Thuật ngữ **tứ tấu đàn dây** có thể dùng để chỉ một thể loại sáng tác âm nhạc hoặc một nhóm bốn người chơi đàn dây. Nhiều nhà soạn nhạc từ
**Áo**, quốc hiệu là **Cộng hòa Áo**, là một quốc gia không giáp biển nằm tại Trung Âu. Quốc gia này tiếp giáp với Cộng hòa Séc và Đức về phía bắc, Hungary và Slovakia
**Joséphine de Beauharnais** (phiên âm tiếng Việt: **Giô-dê-phin**; ; tên khai sinh là **Marie Josèphe Rose Tascher de La Pagerie**; 23 tháng 6 năm 1763 – 29 tháng 5 năm 1814) là Hoàng hậu của
**Sir Thomas Beecham, Tòng nam tước thứ hai**, CH (29 tháng 4 năm 1879 - 8 tháng 3 năm 1961), là nhạc trưởng nổi tiếng người Anh. Thomas Beecham không chỉ là một nhạc trưởng
nhỏ|Số 9 có phải là số định mệnh cho nhạc sĩ sáng tác giao hưởng ?.|110x110px Trong lịch sử âm nhạc, nhất là thời kì nhạc cổ điển, bản giao hưởng số 9 (symphony n°9)
nhỏ|Tứ tấu đàn dây biểu diễn một nhạc phẩm nhẹ nhàng. Trong âm nhạc, **divertimento** (phát âm tiếng Việt: /đi-vec-ti-men-tô/; tiếng Anh: /dɪˌvɜːrtɪˈmɛntoʊ /) là một thể loại âm nhạc giải trí, tạo cảm giác
thumb|Anton Walter. Tranh sơn dầu của Friedrich Gauermann, 1825 (Vienna, Kunsthistorisches Museum) **Gabriel Anton Walter** (5.2.1752 - 11.4.1826) là một nhà chế tạo đàn piano. The _Grove Dictionary of Music and Musicians_ mô tả ông
**Anton (Antonio) Diabelli** (1781-1858) là nhà soạn nhạc, nghệ sĩ piano, nhà sư phạm người Áo. ## Cuộc đời và sự nghiệp Anton Diabelli là ca sĩ của dàn hợp xướng tại Nhà thờ Salzburg.