Jean Sibelius (, gần giống: Gian Si-bê-li-út; tên khai sinh là Johan Julius Christian Sibelius; 8 tháng 12 năm 1865 – 20 tháng 9 năm 1957) là một nhà soạn nhạc Phần Lan cuối thời kỳ lãng mạn, ông được coi là một trong những nhà soạn nhạc nổi tiếng nhất giai đoạn cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Âm nhạc của ông đã góp một phần quan trọng trong việc xác định Phần Lan trên bản đồ âm nhạc thế giới.
Các tác phẩm chính của ông gồm bảy bản giao hưởng. Cũng giống như Beethoven, Sibelius sử dụng mỗi tác phẩm để hoàn thiện phong cách soạn nhạc mang cá tính riêng. Hiện nay, những tác phẩm này của Sibelius vẫn còn được thu âm và biểu diễn thường xuyên tại các buổi hòa nhạc.
Ngoài giao hưởng, Sibelius còn được biết đến với các tác phẩm như Finlandia, Valse Triste, Violin Concerto, Karelia Suite và Swan of Tuonela. Ngoài ra, ông còn sáng tác các tác phẩm dựa trên nguồn cảm hứng từ tập thơ Kalevala, 100 bài hát cho giọng ca và piano, nhạc nền (incidental music) cho 13 vở kịch, tác phẩm opera Jungfrun i tornet (Thiếu nữ trong tòa tháp), nhạc giao hưởng, nhạc piano. Ông cũng cho xuất bản 21 cuốn sách về hợp xướng, nhạc nghi lễ. Sibellius sáng tác rất nhiều tác phẩm cho đến tận giữa thập niên 1920. Tuy nhiên, sau khi hoàn thành bảy bản bản giao hưởng năm 1924 và bản thơ giao hưởng Tapiola năm 1926, ông không cho ra đời thêm bất cứ tác phẩm nào trong ba mươi năm cuối của cuộc đời. Tuy vậy thì dù mang tiếng không sáng tác nữa nhưng Sibellius vẫn tiếp tục viết nhạc và chỉnh sửa lại các tác phẩm đầu sự nghiệp của ông.
Cuộc đời
Thời thơ ấu
Jen Sibelius có mẹ có gốc gác Thụy Điển. Bà biết chơi nhiều nhạc cụ. Con trai bà, Sibelius, bắt đầu học nhạc từ khi lên 5 tuổi. Đến khi 9 tuổi, Sibelius được học có hệ thống về âm nhạc. Năm 10 tuổi đã có tác phẩm đầu tay, Cuộc đời của dì Evalina bằng âm nhạc và tiểu phẩm Những giọt nước. Cậu bé viết sau khi đọc về sáng tác nhạc trong sách vở.
Trưởng thành
Năm 1885, Sibelius học khoa luật tại Đại học Helsinki. Đồng thời, ông cũng học thêm âm nhạc ở một nhạc viện. Sau đó, ông bỏ hẳn việc học luật để chuyên tâm học nhạc. Ông học sáng tác âm nhạc với thầy Martin Wegelius và học chơi violin với một người khác. Sau đó, Sibelius lại đến Viên để tiếp tục học nhạc tại nhạc viện vào năm 1890 và 1891. Ở đó, ông học viết các bản giao hưởng. Giữa năm 1892, ông dạy học tại Học viện Âm nhạc Helsinki. Cuối năm đó ông đã cho ra đời Kullervo. Trong các năm 1893-1897, ông viết một tổ khúc để ca ngợi người anh hùng dân tộc Phần Lan Lemminkainen. Năm 1897, Sibelius được chính phủ Phần Lan trợ cấp hàng năm, giúp ông có điều kiện sáng tác tốt hơn. Đến năm 1931, Sibelius đã kết thúc sự nghiệp âm nhạc của mình, mặc dù phải đến năm 1957 ông mới vĩnh viễn ra đi. Tuy im tiếng lâu như vậy, danh tiếng của ông là không thể chối cãi. Ông được người dân trong nước và quốc tế ngưỡng mộ. Các tác phẩm của ông vẫn được lựa chọn để biểu diễn.
Phong cách âm nhạc
Jean Sibelius coi âm nhạc có tiêu đề là phương tiện thể hiện những hình tượng cụ thể và những tư tưởng tiến bộ có ý nghĩa xã hội. Bản lĩnh bậc thầy trong sáng tác của ông trong các tác phẩm dành cho dàn nhạc giao hưởng đã phần nào đó làm lu mờ vẻ đẹp trong các tác phẩm dành cho hợp xướng và thanh nhạc của ông. Giống như Edward Elgar, Sibelius viết một lượng đáng kể nhạc nhẹ có chất lượng cao. Nhạc viết cho sân khấu của ông cũng cực kỳ tinh tế. Vị trí cao của ông trong lĩnh vực nhạc giao hưởng là không thể phủ nhận. Ông đã bồi đắp thêm vẻ đẹp của âm nhạc lãng mạn, chứ không phải chống lại nó. Ông là biểu tượng cho nền âm nhạc mang màu sắc dân tộc Phần Lan.
Danh mục tác phẩm
Sáng tác cho dàn nhạc
*_Kullervo_, Symphonic Poem for soprano, baritone, chorus and orchestra, Op. 7 (1892)
*_En Saga_, Tone Poem for orchestra, Op. 9 (1892/1902)
*_Karelia_ Overture for orchestra, Op. 10 (1893)
*_Karelia Suite_ for orchestra, Op. 11 (1893)
*_Rakastava_ (_The Lover_) for male voices and strings or strings and percussion, Op. 14 (1893/1911)
*_Lemminkäinen Suite_ (Four Legends from the Kalevala) for orchestra, Op. 22 (1893) – these legends, which include _The Swan of Tuonela_, are often performed separately
*_Skogsrået_ (_The Wood Nymph_), Tone Poem for orchestra, Op. 15 (1894)
*_Vårsång_ (_The Spring Song_) for orchestra, Op. 16 (1894)
*_Kung Kristian II (King Christian II)_, Suite from the incidental music for orchestra, Op. 27 (1898)
*_Sandels_, Improvisation for chorus and orchestra, Op. 28 (1898)
*_Finlandia_ for orchestra and optional chorus, Op. 26 (1899)
*_Snöfrid_ (_The Beloved Beauty_) for reciter, chorus and orchestra, Op. 29 (1899)
*_Tulen Synty_ (_The Origin of Fire_), Op. 32 (1902)
*Symphony No. 1 in E minor for orchestra, Op. 39 (1899/1900)
*Symphony No. 2 in D major for orchestra, Op. 43 (1902)
*Violin Concerto in D minor, Op. 47 (1903/1905)
*_Kuolema_ (_The Death_) (_Valse triste_ and _Scene with Cranes_) for orchestra, Op. 44 (1904/06)
*_Dance Intermezzo_ for orchestra, Op. 45/2 (1904/07)
*_Pelléas et Mélisande_, Incidental music/Suite for orchestra, Op. 46 (1905)
*_Pohjolan tytär_ (_Pohjola's Daughter_), Tone Poem for orchestra, Op. 49 (1906)
* Symphony No. 3 in C major for orchestra, Op. 52 (1907)
*_Svanevit_ (_Swan-white_), Suite from the incidental music for orchestra, Op. 54 (1908)
*_Nightride and Sunrise_, Tone Poem for orchestra, Op. 55 (1909)
*_Dryadi_ (_The Dryad_) for orchestra, Op. 45/1 (1910)
*Two Pieces from _Kuolema_ for orchestra, Op. 62 (1911)
*Symphony No. 4 in A minor for orchestra, Op. 63 (1911)
*Scènes Historiques, Suite No. 2, Op. 66 (1912)
*Two Serenades for violin and orchestra, Op. 69 (1912)
*_Barden_ (_The Bard_), Tone Poem for orchestra and harp, Op. 64 (1913/14)
*_Luonnotar_ (_Spirit of Nature, Mother Earth_), Tone Poem for soprano and orchestra, Op. 70 (1913)
*_Aallottaret_ (_The Oceanides_), Tone Poem for orchestra, Op. 73 (1914)
* Impromptu, Op. 78 (1915)
* Symphony No. 5 in E-flat major for orchestra, Op. 82 (1915, revised 1916 and 1919)
*_Oma Maa_ (_My Own Land_) for chorus and orchestra, Op. 92 (1918)
*_Jordens sång_ (_Song of the Earth_) for chorus and orchestra, Op. 93 (1919)
*Valse Lyrique, Op. 96 (1920)
*Symphony No. 6 in D minor for orchestra, Op. 104 (1923)
*Symphony No. 7 in C major for orchestra, Op. 105 (1924)
*_The Tempest_, Incidental music for soloists, chorus and orchestra, Op. 109 (1925)
*_Väinön virsi_ (_Väinö's Hymn_) for chorus and orchestra, Op. 110 (1926)
*_Tapiola_, Tone Poem for orchestra, Op. 112 (1926)
*_Andante Festivo_ (for string quartet 1922; string orchestra and timpani 1938)
*Suite for violin and strings, Op 117
Sáng tác khác
Viisi joululaulua, (Five Christmas Songs) Op. 1, solo songs (1897–1913)
Seven Songs, Op. 17, with lyrics by J. L. Runeberg, K. A. Tavaststjerna, Oscar Levertin, A.V. Forsman (Koskimies, Finnish surname), and Ilmari Calamnius (Kianto, Finnish surname). Composed between 1891 and 1904.
Incidental music to Hjalmar Procopé's play Belshazzar's Feast, Op. 51 (1906)
Voces intimae, Op. 56, string quartet (1909)
*Jäger March (Jääkärimarssi), for male chorus and symphony orchestra, Op. 91a (1915)
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Jean Sibelius** (, gần giống: _Gian Si-bê-li-út_; tên khai sinh là **Johan Julius Christian Sibelius**; 8 tháng 12 năm 1865 – 20 tháng 9 năm 1957) là một nhà soạn nhạc Phần Lan cuối thời
**Concerto cho vĩ cầm** cung Rê thứ, Op. 47, được viết bởi nhà soạn nhạc Jean Sibelius vào năm 1904, và được hiệu đính vào năm 1905. Đây là bản concerto duy nhất mà ông
**Giao hưởng số 7 cung Đô trưởng, Op. 105** là bản giao hưởng được xuất bản cuối cùng của nhà soạn nhạc người Phần Lan Jean Sibelius. Tác phẩm được ông hoàn thành vào năm
**Kullervo** là bản giao hưởng thơ của nhà soạn nhạc người Phần Lan Jean Sibelius. Ông sáng tác nó vào cuối năm 1892 dựa trên thiên anh hùng ca Kalevala. Năm 1893, tác phẩm được
**Pelléas et Mélisande** là tổ khúc 10 phần của nhà soạn nhạc người Phần Lan Jean Sibelius. Tác phẩm được viết vào năm 1905 để phục vụ cho vở kịch cùng tên của Maurice Maeterlinck.
**Giao hưởng số 1, cung Mi thứ , Op.39** là bản giao hưởng đầu tiên của nhà soạn nhạc người Phần Lan Jean Sibelius. Ông viết bản giao hưởng này vào năm 1899. Trong tác
**Giao hưởng số 5, cung Mi giáng trưởng, Op. 82** là bản giao hưởng của nhà soạn nhạc người Phần Lan Jean Sibelius. Bản giao hưởng được sáng tác vào năm 1915, sau đó sửa
**Tổ khúc Karelia, Op.11** (tiếng Việt: **Tổ khúc Karelina**) là tổ khúc cho dàn nhạc giao hưởng của nhà soạn nhạc người Phần Lan Jean Sibelius. Tác phẩm được sáng tác vào năm 1893.
**Eino Leino** (tên khai sinh **Armas Einar Leopold Lönnbohm**; 6 tháng 7 năm 1878 – 10 tháng 1 năm 1926) là nhà thơ, nhà báo Phần Lan, được coi là một trong những tác giả
**Carl Nielsen** (1865–1931) được biết đến là nhà soạn nhạc danh tiếng nhất Đan Mạch, với nhiều cách tân trong sáng tác và đậm màu sắc âm nhạc truyền thống. Hình ảnh của ông đã
[[Dàn nhạc giao hưởng Việt Nam trong buổi hòa nhạc tổ chức tại Nhà hát Lớn Hà Nội]] **Giao hưởng** là các tác phẩm lớn trong nền âm nhạc cổ điển phương Tây, thường được
nhỏ|Hình ảnh Tấm bảng tưởng niệm trên mặt tiền của Nhà hát Thụy Điển ở Helsinki. Đoạn văn được dịch: "Vở Finlandia của Jean Sibelius được trình diễn lần đầu tiên tại nhà hát này.
**Nhạc cổ điển thế kỷ 20** là một giai đoạn trong lịch sử phát triển của nhạc cổ điển. Đây là giai đoạn nối tiếp thời kỳ âm nhạc Lãng mạn. Đây là thời kỳ
**Đô trưởng** (ký hiệu là **C**), hay **Si thăng trưởng** (ký hiệu là **B**), là một cung thể trưởng dựa trên nốt Đô (C), tức Si thăng (B), bao gồm các nốt sau: **Đô** (**C**),
Ngày **8 tháng 12** là ngày thứ 342 (343 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 23 ngày trong năm. ## Sự kiện *395 – Trong trận Tham Hợp Pha, quân Hậu Yên thất bại
Trong nghệ thuật, không ít tác phẩm đã bị bỏ dở giữa chừng. Trong nhạc cổ điển cũng vậy, có khà nhiều bản giao hưởng đã không được hoàn chỉnh (đáng ra chúng được 4
nhỏ|David Oistrakh đang biểu diễn một bản concerto cho vĩ cầm năm 1960 **Concerto cho vĩ cầm** là một bản hòa tấu dành cho vĩ cầm độc tấu (đôi khi là hai hoặc nhiều hơn)
**En Saga** (tiếng Việt: **Một câu chuyện cổ tích**) là bản giao hưởng thơ của nhà soạn nhạc người Phần Lan Jean Sibelius. Tác phẩm được viết trong các năm 1892-1901. Chủ đề của nó
**Tổ khúc** là một thể loại nhạc hòa tấu không lời, gồm nhiều bản nhạc khác nhau nhưng cùng thể hiện một chủ đề nhất định, được biểu diễn một cách nối tiếp liên tục
**Rê trưởng** là một cung thể trưởng dựa trên nốt Rê (D), bao gồm các cao độ **Rê**, Mi (E), Fa thăng (F), Sol (G), La (A), Si (B), Đô thăng (C) và **Rê**. Hóa
**Thiên nga** là một nhóm chim nước cỡ lớn thuộc họ Vịt, cùng với ngỗng và vịt. Thiên nga và ngỗng có quan hệ gần gũi, cùng được xếp vào phân họ Ngỗng trong đó
**Giao hưởng số 9** có thể là một trong các bản giao hưởng sau: *Giao hưởng số 9 của Ludwig van Beethoven *Giao hưởng số 9 của Anton Bruckner *Giao hưởng số 9 của Antonín
Trường **Đại học Helsinki** (tiếng Phần Lan: Helsingin yliopisto, tiếng Thụy Điển: Helsingfors universitet, tiếng Latin: Universitatis Helsingiensis) là một trường đại học nằm ở Helsinki, Phần Lan kể từ năm 1829, nhưng được thành
**Giao hưởng số 7** có thể là: * Giao hưởng số 7 của Joseph Haydn * Giao hưởng số 7 của Wolfgang Amadeus Mozart * Giao hưởng số 7 của Ludwig van Beethoven * Giao
**Giao hưởng số 6** có thể là: * Giao hưởng số 6 của Joseph Haydn * Giao hưởng số 6 của Wolfgang Amadeus Mozart * Giao hưởng số 6 của Ludwig van Beethoven * Giao
**Giao hưởng số 5** có thể là: * Giao hưởng số 5 của Joseph Haydn * Giao hưởng số 5 của Wolfgang Amadeus Mozart * Giao hưởng số 5 của Ludwig van Beethoven * Giao
**Giao hưởng số 3** có thể là: * Giao hưởng số 3 của Joseph Haydn * Giao hưởng số 3 của Wolfgang Amadeus Mozart * Giao hưởng số 3 của Ludwig van Beethoven * Giao
**Giao hưởng số 4** có thể là: * Giao hưởng số 4 của Joseph Haydn * Giao hưởng số 4 của Wolfgang Amadeus Mozart * Giao hưởng số 4 của Ludwig van Beethoven * Giao
**Giao hưởng số 2** có thể là: * Giao hưởng số 2 của Joseph Haydn * Giao hưởng số 2 của Wolfgang Amadeus Mozart * Giao hưởng số 2 của Ludwig van Beethoven * Giao
**Giao hưởng số 1** có thể là: * Giao hưởng số 1 của Joseph Haydn * Giao hưởng số 1 của Wolfgang Amadeus Mozart * Giao hưởng số 1 của Ludwig van Beethoven * Giao
nhỏ|Serenade **Serenade** (hay **Serenata**) là một thể loại âm nhạc nhẹ nhàng, thường do nhạc cụ tấu lên vào buổi chiều như một cách vinh danh gửi lời ưu ái đến một người. Vì nhạc
**Zbigniew Preisner** (phát âm gốc tiếng Ba Lan: [ˈzbiɡɲɛf ˈpɾajsnɛɾ]; sinh ngày 20 tháng 5 năm 1955 tại Bielsko-Biała, với tên khai sinh là Zbigniew Antoni Kowalski) là một nhà soạn nhạc phim người Ba
Trong văn hóa đại chúng, **hình tượng con thiên nga** mà đặc biệt là thiên nga đen và thiên nga trắng được nhắc đến nhiều trong dân gian, thần thoại và nghệ thuật. Hình ảnh
**Sir Thomas Beecham, Tòng nam tước thứ hai**, CH (29 tháng 4 năm 1879 - 8 tháng 3 năm 1961), là nhạc trưởng nổi tiếng người Anh. Thomas Beecham không chỉ là một nhạc trưởng
**Edvard Hagerup Grieg** (, 15 tháng 6 năm 1843 - 4 tháng 9 năm 1907) là nhà soạn nhạc, nhạc trưởng, nghệ sĩ piano người Na Uy nổi tiếng nhất. Ông là một thiên tài
**Benjamin Britten** (1913-1976) là nhà soạn nhạc, nhạc trưởng, nghệ sĩ piano người Anh. Ông là nhà soạn nhạc thuộc thời kỳ Hiện đại. Ông có công với opera Anh khi là người phục hưng
**Giao hưởng thơ**, hay còn được gọi là **thơ giao hưởng** hay **thơ bằng bằng âm thanh bằng nhạc cụ** là một thể loại của nhạc cổ điển, được viết cho dàn nhạc giao hưởng.
nhỏ|phải|liên_kết=Special:FilePath/Symphony_No.3_(Mahler).jpg **Giao hưởng số 3, cung Rê thứ** là bản giao hưởng của nhà soạn nhạc người Áo Gustav Mahler. Ông viết tác phẩm này vào năm 1896. Tham gia biểu diễn bản giao hưởng
**Go Getters** là tập thứ năm trong Phần 7 của series phim truyền hình _The Walking Dead_. Tập phim được phát sóng trên kênh AMC của Mỹ vào ngày 20 tháng 11 năm 2016. Khi
**Tổ khúc Lemminkäinen** (hay còn được gọi là **Bốn câu chuyện truyền thuyết của Kalevala**) là tác phẩm của nhà soạn nhạc người Phần Lan Jean Sibelius. Tác phẩm được viết trong các năm 1893-1897.
**Đỗ Phương Nhi** (sinh năm 1998) là một thần đồng, nghệ sĩ vĩ cầm người Việt Nam. ## Tiểu sử Đỗ Phương Nhi sinh ngày 16 tháng 11 năm 1998 tại Hà Nội, Việt Nam
**Bagatelle** là một bản nhạc ngắn, thường dành cho dương cầm, thường có giai điệu nhẹ nhàng thư giãn. Bagatelle có nghĩa là "một bản hòa tấu khiêm tốn" do thường nghiêng về phong cách
**Akseli Gallen-Kallela** (), tên khai sinh là **Axel Waldemar Gallén** (26 tháng 4 năm 1865 – 7 tháng 3 năm 1931), là một họa sĩ người Phần Lan. Ông được biết đến với các tác
**Uusimaa** (, ) là một vùng thuộc miền nam Phần Lan, thủ phủ là thành phố Helsinki. Vùng Kymenlaakso có diện tích là 16.059,32 km² (2021) – đứng thứ 10 cả nước, với dân số
**Vilde Frang Bjærke** (sinh ngày 19 tháng 8 năm 1986) là một nghệ sĩ vĩ cầm cổ điển người Na Uy. ## Đầu đời và giáo dục Frang sinh ra ở Oslo, Na Uy. Cô
**Alexander Frey** là chỉ huy dàn nhạc giao hưởng, nghệ sĩ organ, nghệ sĩ dương cầm, đàn harpsichord và nhà soạn nhạc người Mỹ. Frey đang được yêu cầu rất nhiều với tư cách là
**Dmitri Dmitrievich Shostakovich** (, ; 9 tháng 8 năm 1975; phiên âm: **Sô-xta-cô-vích**) là một nhà soạn nhạc và nghệ sĩ dương cầm người Nga thời Liên Xô. Ông được coi là một trong những
## Danh sách ### Từ 1001 đến 1100 |- | 1001 Gaussia || 1923 OA || 8 tháng 8 năm 1923 || Crimea-Simeis || S. Beljavskij |- | 1002 Olbersia || 1923 OB || 15