✨Hsinbyushin
Hsinbyushin (tiếng Miến: ဆင်ဖြူ ရှင်, ; tiếng Thái: พระเจ้า มั ง ระ; 12 tháng 9 năm 1736 - ngày 10 tháng 6 năm 1776) là vua thứ ba của nhà Konbaung nước Miến Điện (Myanmar), cai trị từ năm 1763 đến năm 1776. Ông được xem là vị vua hiếu chiến nhất của triều đại mình, đã tiến hành nhiều cuộc chiến tranh với Mãn Thanh và Xiêm La. Công cuộc phòng thủ thành công của ông chống lại cuộc bốn cuộc xâm lăng của quân Thanh đã mang lại độc lập cho Miến Điện. Cuộc xâm lược Xiêm La của ông (1765-1767) đã kết thúc triều đại Ayutthaya của Xiêm La. Các chiến thắng cả Đại Thanh lẫn Xiêm La bộc lộ "một hào khí thật sự mãnh liệt đến kinh ngạc chưa từng có từ thời Bayinnaung." Ông cũng đã cho nâng chiều cao của chùa Shwedagon tới chiều cao hiện tại của nó vào tháng 4 năm 1775.
Hsinbyusin là con trai thứ hai của Alaungpaya – vua sáng lập triều Konbaung. Ông từng làm phó tướng trong chiến dịch thống nhất Miến Điện (1752–1759) của vua cha. Sau khi kế ngôi, Hsinbyushin hăng hái mở rộng bờ cõi, đánh phá các lân bang. Năm 1767, vua Hsinbyushin dập tắt một cuộc nổi dậy ở Manipur, đánh chiếm Ai Lao, thôn tính Xiêm La và đập tan 2 cuộc xâm lược của Đại Thanh. Nhưng việc ông đánh nhau với quân Thanh và Xiêm cùng một lúc đã làm cho Miến Điện suýt bị diệt vong. Năm 1767–1768, vua Thanh Càn Long đánh Miến Điện lần 3. Quân Bát Kỳ tinh nhuệ của nhà Thanh lấn sâu vào miền trung Miến Điện, khiến Hsinbyushin phải vội vã rút quân khỏi Xiêm La. Cuối cùng, năm 1769, quân Miến Điện do tướng Maha Thiha Thura chỉ huy đánh tan quân Thanh, nhưng quan hệ 2 nước tiếp tục căng thẳng thêm 10 năm nữa, nên Hsinbyushin không thể tái chiến với Xiêm.
Do chiến tranh liên miên, nhà nước của Hsinbyusin bị quân sự hóa rất mạnh. Các đại tướng mặc sức sách nhiễu cư dân. Năm 1773, quân sĩ người dân tộc Mon làm loạn và bị đàn áp đẫm máu. Năm 1774, Hsinbyushin lâm trọng bệnh và không còn gượng dậy được nữa; các tướng tá, quan lại địa phương càng tăng cường hà hiếp dân chúng. Năm 1775, các thuộc quốc phên dậu Lan Na và Manipur đồng loạt nổi dậy. Vua Xiêm là Taksin thừa cơ tiến quân vào Lan Xang, lấy được Chiang Mai. Tháng 10 năm 1775, Hsinbyushin sai Maha Thiha Thura đánh Xiêm lần hai, không thu được thắng lợi. Khi Hsinbyushin chết vào tháng 6 năm 1776, quân đội Miến Điện vẫn đang sa lầy trên đất Xiêm và Manipur. Quân sĩ Miến Điện rút khỏi Xiêm ngay sau khi nhà vua mất, để lại Lan Na trong tay người Xiêm. Tóm lại, hầu hết các lãnh thổ mà Hsinbyushin chinh phạt đều không giữ được lâu, chỉ có miền Tanintharyi, bang Shan và bang Kachin là Miến Điện còn kiểm soát được đến ngày nay.
Đầu đời
Hsinbyushin tên khai sinh là Maung Ywa (), sinh ngày 12 tháng 9 năm 1736 ở Moksobo, một làng lớn trong thung lũng sông Mu nằm cách Ava 97 km về hướng tây bắc. Là con của Aung Zeya và Yun San. Cha Hsinbyushin là Aung Zeya làm hương trưởng một làng có vài trăm hộ, và là thành viên một vọng tộc đã góp phần cai quản thung lũng Mu qua hàng chục năm. Gia đình Aung Zeya còn có liên hệ máu mủ và hôn nhân với nhiều vọng tộc khác trong thung lũng. Aung Zeya tự xưng là hậu duệ của một tướng kỵ binh thế kỷ 15 và của hoàng tộc Pagan.
Ywa sinh trưởng dưới thời vua Mahadhammaraza Dipadi nhà Toungoo. Bấy giờ nhà Toungoo suy yếu, quân Manipuri thừa cơ kéo vào cướp phá khu vực giữa Chindwin và Irrawaddy. Các cuộc cướp phá đã diễn ra liên tục thời thập niên 1720 và ngày càng lấn sâu vào vùng Thượng Miến. Làng của Ywa nằm ngay trên đường tiến của quân Manipuri, nên chịu rất nhiều thiệt hại. Triều đình Miến Điện không đánh nổi nước Manipur, làm dân Miến phải bất lực nhìn "bọn giặc cướp" đốt phá làng mạc, cướp bóc chùa tháp và bắt nhiều người về nước họ. Năm 1740, người Mon tách ra tự trị ở Hạ Miến, lập ra vương quốc Hanthawaddy trung hưng. Chính quyền trung ương Toungoo hoàn toàn bất lực. Ngày 23 tháng 3 năm 1752, các quân của Hanthawaddy tiến chiếm Ava, đánh đổ hoàn toàn triều Toungoo.
Giúp cha đánh dẹp, thống nhất Miến (1752–1760)
Ngày 29 tháng 2 năm 1752, 3 tuần trước khi Ava thất thủ, Aung Zeya xưng vương, tức vua Alaungpaya, lập ra triều Konbaung đối kháng với Hanthawaddy. Nhà Konbaung chỉ là một trong nhiều lực lượng chống cự Hathawaddy ở Thượng Miến (các phe nhóm này phần nhiều là người thiểu số Bamar và Shan). Alaungpaya được hào kiệt nam nữ khắp 46 làng trong thung lũng Mu hưởng ứng; những người này quyết chí rửa nhục cho đất nước một thời vinh quang của họ. Ywa khi đó 15 tuổi, theo cha ra trận rất hăng hái. Ông được phong hiệu Thado Minsaw, nhanh chóng tỏ ra là người con giỏi nhất của Alaungpaya và là một tướng quân trí dũng.
Tháng 12 năm 1753, quân Konbaung đã chặn được đà tiến của địch. Quân Hanthawaddy lui về cố đô Ava. Alaungpaya sai Ywa phản công chiếm lại Ava. Ngày 3 tháng 1 năm 1754, Ywa cất quân đánh lớn, quân Hanthawaddy đại bại. Vua Alaungpaya rất mừng, phong Ywa làm trấn thủ Ava (thành phố bấy giờ đã bị quân Hanthawaddy phá sạch trơn).
3 tháng sau, quân Hanthawaddy đưa một lực lượng cực mạnh trở lại Ava. Quân Konbaung do Hsinbyushin và anh là Naungdawgyi chỉ huy thua một trận lớn ở quận Myingyan ngày nay. Hsinbyushin lui về chống giữ Ava. Quân Hanthawaddy lại bao vây thành phố. Các cánh quân khác của Hanthawaddy đánh lên thung lũng Mu, đất căn bản của nhà Konbaung, nhưng bị thua luôn. Tháng 4 năm 1754, Hsinbyushin đánh bại quân Hanthawaddy, giải phóng Ava, rồi truy kích xuống tận Minbu. Vua Alaungpaya ban cho Hsinbyushin một thái ấp ở Myedu. Từ đây ông có danh hiệu Vương tước Myedu. Năm 1774, nhà vua sai trùng tu chùa Shwedagon, nâng độ cao của chùa lên mức hiện tại; ông còn dát thêm vàng cho chùa và xây một ngọn chóp nạm ngọc để thay thế ngọn chóp cũ bị đổ do động đất năm 1769.
Không những là một nhà chinh phạt lớn, Hsinbyushin còn say mê thơ phú. Thứ phi của ông là Ma Htwe cũng là một thi sĩ nổi danh. Letwe Thondara, một thư ký hội đồng Hluttaw, đã có thời bị Hsinbyushin lưu đày ra đồi Meza (nay thuộc huyện Katha). Thondara đã sáng tác bài thơ Meza Taung-Che, mô tả nỗi buồn cô độc của mình, làm nhà vua cảm động và phục chức.
Ai Lao (1765)
Để tạo nền tảng chắc chắn cho việc chinh phục Xiêm, Hsinbyushin quyết định cô lập nước này, bằng cách thôn tính các tiểu vương quốc Ai Lao ở sườn phía bắc và đông của Xiêm. Tháng 1 năm 1765, ông sai tướng Ne Myo Thihapate đem 2 vạn quân tinh nhuệ từ Chiang Mai kéo vào đánh phá Ai Lao. Xứ Vạn Tượng không đánh đã hàng, chịu xưng thần với vua Miến. Nhưng xứ Luang Prabang lại cho quân đánh trả. Tháng 3 năm 1765, Thihapate thúc quân chiếm Luang Prabang, từ đây người Miến có thể uy hiếp toàn bộ vùng biên giới phía bắc của Xiêm.
Xiêm La (1765–1767)
thumb|right|Ayutthaya đổ nát.
Sau khi chinh phục Ai Lao, Thihapate đem quân về Lan Na. Trên hướng nam, cánh quân của Maha Nawrahta cũng đã tập kết ở thị trấn Tavoy (Dawei) trên biên ải Xiêm-Miến. Tháng 8 năm 1765, cánh quân của phía bắc của Thihapate xuất hành trước. Quân Thihapate vượt thung lũng Chao Phraya tiến vào Xiêm, họ hành quân khá chật vật do gặp mưa lớn và sự kháng cự mạnh của các tù trưởng Xiêm. Đến giữa tháng 10 năm 1765, khi mùa mưa hết, Maha Nawrahta mới dẫn cánh quân phía nam vượt Tenasserim, hình thế thế gọng kìm bao vây Xiêm La. Ngày 20 tháng 1 năm 1766, quan quân Miến đánh tới ngoại ô Ayutthaya. Quốc đô Xiêm bị vây đánh dữ dội suốt 14 tháng. Ngày 7 tháng 4 năm 1767, quân Miến đánh tan quân Xiêm và phá hủy toàn bộ Ayutthaya, bắt cả vương tộc Xiêm cùng nhiều nghệ nhân tài hoa.
Nhưng Hsinbyushin không giữ thành quả được lâu. Cuối năm 1767, ông triệu phần lớn binh lực từ Xiêm về đánh quân Thanh ở phía bắc. Chớp lấy thời cơ, người Xiêm phát động khởi nghĩa, đến năm 1770 chiếm lại hầu hết đất đai của họ (trừ Tenasserim).
Đánh quân Thanh xâm lược (1765–1769)
Vào thập niên 1730, một số tù trưởng biên giới Thanh-Miến, vốn trước đây thường dâng lễ cống cho cả Miến Điện lẫn Mãn Thanh, hoàn toàn thần phục Đại Thanh. Khoảng năm 1758-59, vua Miến Alaungpaya sai tướng thần đánh lên biên giới, phục hồi quyền kiểm soát các phiên thuộc. Ban đầu Thanh đình chủ trương "dùng man di trị man di", chỉ dùng dân quân địa phương người Thái, Shan mà chiếm lại đất; nhưng đến năm 1765 vua Càn Long xuống lệnh cho quân chính quy xâm lược Miến Điện. Tháng 12 năm 1765, đương lúc đại quân Miến hành quân đánh Ayutthaya, quân Thanh tràn vào đất Miến. Hsinbyushin ra lệnh các cánh quân chủ lực tiếp tục đánh Xiêm, không cho chuyển lên biên giới phía bắc. Sự sắp xếp của Hsinbyushin thoạt đầu có vẻ ổn thoả: các đơn vị Miến còn lại trên đất mình đã phá được quân Thanh, sau đó truy kích tới tận quận Phổ Nhĩ, rồi thắng luôn 1 trận cuối ở đây. thumb|Bản đồ cuộc chiến tranh Thanh-Miến lần thứ ba (1767–1768)
Năm 1766, quân Thanh do tổng đốc Dương Ứng Cừ chỉ huy sang xâm lược lần hai. Hsinbyushin lập mưu nhử địch tiến sâu vào đất Miến để bao vây tiêu diệt. Ông sai đại tướng Balamindin bỏ Bhamo, lui về chốt giữ Kaungton, cách Bhamo vài dặm trên dòng Irrawaddy. Quân Thanh dễ dàng chiếm Bhamo, tiếp đó vây đánh Kaungton. Balamindin phòng ngự chắc chắn, bẻ gãy nhiều đợt tấn công liên tiếp của quân Thanh. Thế quân Thanh ngày càng suy nhược. Chớp lấy thời cơ, đại quân Miến chia làm hai cánh phản công tiêu diệt hoàn toàn quân Thanh. Dương Ứng Cừ bị Càn Long ép phải tự sát.
Sau hai lần thất bại, Thanh đình không thể nào hiểu được một nước "di địch" như Miến Điện lại có thể chống cự "thiên triều" Đại Thanh. Càn Long thấy quân Lục Doanh người Hán đánh không thiện chiến, bèn quyết tung quân Mãn Châu ra trận. Tháng 11 năm 1767, vua Thanh sai tổng đốc Vân Nam Minh Thụy đem 5 vạn quân do lực lượng Bát kỳ tinh nhuệ làm tiên phong đánh Miến Điện. Tháng 12, đại quân Thanh nhanh chóng tiến sâu vào đất Miến, đánh bại quân Miến hai trận lớn ở đèo Goteik và Hsenwi. Hsinbyushin phải gọi quân từ Xiêm về nước. Sau khi đánh vỡ đại quân Miến, Minh Thụy xua quân tiến lên, đánh chiếm hết thị trấn này đến thị trấn khác và đến được Singu trên bờ sông Irrawaddy, chỉ cách Ava có 30 dặm về phía bắc vào đầu năm 1768.
Tại Ava, Hsinbyushin tỏ ra không khiếp sợ trước viễn cảnh 3 vạn quân Thanh đã đến trước cửa. Triều đình giục ông rút lui, nhưng nhà vua đáp lại một cách khinh miệt, rằng ông và các con khác của Alaungpaya sẽ đánh lại quân Thanh dù có phải đơn độc chiến đấu. Thay vì cố thủ kinh đô, Hsinbyushin bình tĩnh đưa một đạo quân thiết lập vị trí tiền tiêu ngoài Singu, bản thân ông cũng dẫn binh sĩ lên tuyến đầu chiến tuyến. Quân Miến được tăng viện đã hăng hái phản công, liên tiếp đánh bại quân Thanh, đỉnh điểm là trận Maymyo vây diệt hoàn toàn lực lượng Bát kỳ. Bản thân Minh Thụy bị thương nặng và tự sát. Chỉ có một nhóm nhỏ quân Thanh chạy thoát về nước.. Bấy giờ Hsinbyushin đã đưa hầu hết số quân từ Xiêm về nước, tạo điều kiện cho người Xiêm khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của Taksin lấy lại được nước. Phiên bang Manipur cũng lại nổi dậy vào giữa năm 1768, nhưng Hsinbyushin không còn cách nào khác ngoài việc tập trung bảo vệ sự tồn tại của vương quốc Miến.
Tháng 10 năm 1769, Càn Long sai Phó Hằng dẫn 6 vạn quân vào Miến Điện. Các cánh quân thủy bộ Miến chống đánh dữ dội. Quân Thanh bị ghìm chân trên biên giới.
Manipur (1770)
Biết rằng Hsinbyushin đang giận dữ, các tướng Miến chưa vội về kinh đô. Tháng 1 năm 1770, họ hành quân tới Manipur; tại đây, phiên vương Manipur đang nổi dậy chống triều đình Miến, lợi dụng bất ổn giữa Miến Điện với Mãn Thanh. Quân Miến đánh quân Manipur 1 trận dài 3 ngày gần Langthabal. Quân Miến thắng to, phiên vương Manipur phải chạy vào Assam. Quân Miến đưa 1 người cộng tác với họ lên làm phiên vương, rồi trở về kinh đô. Lúc này Hsinbyushin đã nguôi giận khi nghĩ rằng, dù gì các tướng cũng đã đem lại chiến thắng vinh quang và bảo toàn ngôi báu cho ông. Ông phạt Maha Thiha Thura và các bộ tướng phải lưu đày 1 tháng.
Giai đoạn 1770–1774
Sau thất bại của 4 lần xâm lược Miến Điện, Mãn Thanh vẫn rất cay cú. Họ dàn quân dày đặc ở khu vực biên giới Vân Nam suốt một thập kỷ hòng chực thời cơ gây chiến tiếp. Thanh đình còn cấm thông thương biên giới trong vòng 2 thập kỷ. Số dân Mon còn sốt lại không trốn được nên chịu đàn áp thê thảm. Theo sử gia Miến Điện Htin Aung, nguyên nhân chính của cuộc binh biến bắt nguồn từ việc các tướng Miến "say sưa với chiến thắng" nên đã hành xử trịch thượng, thô bạo với sĩ quan và cưu dân người thiểu số Mon ở Martaban, khiến họ căm phẫn chống đối. Dù cuộc nổi dậy thất bại nhưng đã làm Hsinbyushin phải tạm đình chỉ chiến dịch Xiêm La.
Thói ngạo nghễ của các trấn thủ Miến Điện còn gây nên một cuộc nổi dậy khác ở Lan Na. Mọi chuyện bắt đầu từ khi Hsinbyushin cử Thado Mindin làm trấn thủ Chiang Mai. Thado Mindin khinh suất các thổ tù (saophas) và nhân dân Lan Na, khiến họ cực kỳ căm ghét. Tính hà khắc và hẹp hòi của Thado thậm chí còn làm tướng Ne Myo Thihapate, đóng ở Chiang Mai từ năm 1773, phải bất mãn. Khi thổ tù Kawila bị Thado truy bức, Thihapate đã che giấu cho Kawila. Sau, triều đình Miến đình chỉ đánh Xiêm, mới triệu hồi cánh quân của Thihapate về. Kawila và các thổ tù khác không còn chỗ nương náu bèn lánh sang Xiêm và dấy binh đánh Miến. Cuộc nổi dậy diễn ra khoảng 1774-1775. Ngày 15 tháng 1 năm 1775, Kawila dẫn quân Xiêm vào chiếm Chiang Mai, chấm dứt 200 năm Miến Điện đô hộ Chiang Mai.
Không chỉ mất quyền kiểm soát các tướng ngoài biên, năm 1774, Hsinbyushin lâm bạo bệnh. Đây chính là căn bệnh tràng nhạc đã lấy đi mạng sống của vua cha Alaungpaya và vua anh Naungdawgyi trước đây. Từ đó, trong cung đầy rẫy những thị phi và âm mưu chiếm quyền thừa kế. Các tướng vốn đã hành xử chuyên quyền từ năm 1773, khi Hsinbyushin còn khỏe. Đến lúc ông ốm, họ càng hý hửng rằng ông sẽ chết sớm và càng hành động tùy tiện hơn, thường xuyên bất tuân lệnh vua (trong vài năm trước đó thì đây là việc không thể tưởng tượng được). Chứng đa nghi của Hsinbyushin càng trầm trọng vào tháng 12 năm 1774, khi ông xử tử vua Hanthawaddy cuối cùng là Binnya Dala, bị giam giữ từ tháng 5 năm 1757. Dù tiên vương Alaungpaya đã tha chết Binnaya Dala, Hsinbyushin giết Binnaya Dala vì ông nghe tin quân nổi dậy Mon từng có ý giải cứu Binnaya Dala và lập làm vua. Nhưng không lâu sau, đội quân nhỏ nhoi của Miến đụng phải hàng phòng ngự rắn chắc của Xiêm trước Bangkok. Người Miến đánh mãi không được. Đến đầu mùa mưa (tháng 6) năm 1776, vua Xiêm Taksin và tướng Chakri đã bẻ gãy được đà tiến công của người Miến; quân Miến đành chôn chân vô vọng trên đất Xiêm.
Ngày 10 tháng 6 năm 1776, Hsinbyushin chết, hưởng dương 39 tuổi. Maha Thiha Thura lập tức thu quân về Ava để phò giúp con rể mình là Singu lên kế ngôi được êm xuôi. Ne Myo Thihapate cũng rút quân lui khỏi Chiang Mai về Chiang Saen. Từ đây, người Miến không bao giờ chiếm lại được Chiang Mai nữa. Sau này họ còn mất vùng còn lại của Lan Na (Chaing Saen) khoảng năm 1785–1786 sau khi vua Bodawpaya bị bại ở Xiêm.
Manipur, Cachar, Jaintia (1775–1776)
Như đã nêu trên, năm 1775 Manipur lại dấy binh chống Miến. Hsinbyushin sai quân đi đánh, đuổi vua Manipur chạy vào các xứ Cachar và Jaintia. Kỳ này Hsinbyushin không buông tha, ông lệnh cho quân sĩ rượt sâu vào hai xứ này để bắt cho kỳ được vua Manipur. Năm 1776 Hsinbyushin chết. Sau đó quân Miến vẫn tiếp tục đánh Cachar và Jaintia (nay thuộc Bắc Ấn). Vua Cachar thua trận xin thần phục nhưng quân Miến vẫn không đạt mục tiêu bắt vua Manipur. Để có được sự thần phục của Cachar và Jaintia, quân Miến phải trả giá rất đắt: rất nhiều người chết và bị thương.
Tổng quát
Hsinbyushin chết khi mới 39 tuổi. Nhà vua có 20 vợ và 41 con.
Sinh thời Hsinbyushin lập con trưởng là Singu làm thái tử, việc đó mâu thuẫn với di huấn của Alaungpaya rằng 6 người con ông này phải tuần tự kế ngôi. Lúc Hsinbyushin chết, huynh trưởng ông đã mất trước đó nhưng 4 em trai ông đều còn sống. Tuy nhiên, Singu được Maha Thiha Thura chống lưng đã lên ngôi khá êm thấm. Nhà vua mới liền ra sức thanh trừng các đối thủ tiềm ẩn có thể tranh ngôi với mình.
Hsinbyushin là người có tài cầm quân, song sự đam mê chinh chiến của ông đã gây tác hại rất lớn cho Miến Điện. Năm 1766-1767, ông vừa đánh Xiêm vừa đánh Thanh, tạo cho quân Thanh ép sát thủ đô Ava, xém tí nữa thì Miến Điện mất nước. Hsinbyushin có nhận ra đây là sai lầm. Sau này, nhà Thanh đã thua nhưng còn căm tức, cho dàn quân dày đặc ở Vân Nam trong vòng 1 thập kỷ để hăm dọa. Hsinbyushin cũng ra sức phong bị, không đi đánh đâu nữa dù sự bị động của Miến giúp Xiêm quật khởi mạnh mẽ dưới tay vua Taksin, thành một nguy cơ tiềm ẩn đối với Miến từ phía Đông.
Hsinbyushin thường chiếm được đất nhưng không giữ được lâu. Ông và triều đình Miến không thể quản lý chặt chẽ các vùng bị chiếm. Dù phải tốn bao xương máu để chinh phạt Ayutthaya, người Miến phải giữ được quốc đô Xiêm có vài tháng thì phải rút về chống quân xâm lược Thanh. Một thủ lĩnh tài ba của Xiêm là Taksin thừa dịp hưng binh đánh Miến, giải phóng hầu hết vương quốc Xiêm năm 1770. Miến Điện chỉ còn giữ Tenasserim. Thêm vào đó, Hsinbyushin liên tục ném quân vào Manipur, Cachar và Jaintia nhưng không bình định được lâu dài.
Thói dùng binh của Hsinbyushin còn đưa tới một hậu quả khác cũng tai hại không kém đó là sự xuất hiện của văn hóa độc tài quân sự trong giới tướng lĩnh. Từ thập niên 1770 và đặc biệt là sau khi Hsinbyushin bệnh không dậy được, các tướng tá và trấn thủ người Miến ngày càng cư xử chuyên quyền, độc đoán, đẩy sự căm tức của các dân tộc trong vương quốc. Quân sĩ Mon nổi dậy năm 1773 bị dập tắt nhưng dân Chiang Mai năm 1774-74 thành công. Những lần đánh dẹp bạo loạn, cộng với các cuộc chinh phạt không dứt của Hsinbyushin khiến vương quốc khánh kiệt, nhân dân mệt mỏi nên vui mừng đón nhận chính sách hiếu hòa của vua mới Singu.
Di sản
Hsinbyushin là một trong những vua nổi tiếng nhất của Miến Điện, được ca ngợi vì những chiến tích đánh Xiêm và Thanh. Chiến thắng 4 lần xâm lược của quân Thanh dưới thời Hsinbyushin được xem là thắng lợi quân sự vẻ vang nhất trong lịch sử Miến. Chiến thắng Xiêm La năm 1767 có lẽ đứng hạng nhì. Sử gia Victor Lieberman viết: "Những thắng lợi gần như cùng lúc trước Xiêm (1767) và Trung Quốc (1765–1769) bộc lộ một hào khí thật sự mãnh liệt đến kinh ngạc chưa từng có từ thời Bayinnaung."
Các cuộc chiến của Hsinbyushin đã để lại nhiều di sản tới ngày nay bao gồm việc định hình biên giới Trung-Miến, Thái-Miến, và quan hệ Thái-Miến hiện đại. Chiến thắng của Miến đánh quân Thanh đã đặt nền tảng cho sự hình thành của biên giới Trung-Miến ngày nay. Vùng lãnh thổ rộng lớn từ bang Kachin ngày nay tới bang Shan hướng bắc và đông đến nay vẫn thuộc về Miến, đó là nhờ Hsinbyushin chặn được sự xâm lược của Thanh. Thứ hai, cuộc chinh phục Xiêm 1765-1767 dù về lâu dài không thành công nhưng cũng thu được Tenasserim vào bản đồ miến tới ngày nay. Người Xiêm đã cai quản vùng ven biển suốt 5 thế kỷ trước thời Hsinbyushin. Mất Tenassarim, họ tiếc nuối nên nhiều lần thúc quân sang cố giành lại nhưng chưa bao giờ được. Tuy nhiên, thời Hsinbyushin chứng kiến Miến Điện mất Lan Na sau 2 thế kỷ đô hộ. Nếu Hsinbyushin sống lâu hơn, có lẽ ông cũng không thể chiếm lại vùng này vì trên thực tế, em ông là vua Bodawpaya là một nhà quân sự có tài nhưng nhiều lần đánh Lan Na vẫn không lấy lại được
Một di sản quan trọng khác đó là sự thù địch lâu dài của dân Thái đối với dân Miến. Dù Miến với Xiêm đã đụng độ rất nhiều lần trước thời Hsinbyushin, mối thù này thực sự bắt đầu từ khi nhà vua tàn phá đô thành Ayutthaya không chút thương xót vào năm 1767. Một sử thần Xiêm đã viết: "Vua Hanthawaddy (Bayinnaung) dùng binh giống như một quân vương nhưng vua Ava (Hsinbyushin) thì giống một tên cướp". Các cuộc chiến Xiêm-Miến thời trung đại được tiến hành giữa các vua hơn là giữa hai dân tộc, nhưng cũng đủ làm dấy nên cảm giác ghét Miến trong tâm thức người Thái. Sự thù tức này được biểu lộ qua việc chính phủ Thái Lan thực hiện chính sách "vùng đệm", tạo nên nương náu cho các nhóm dân tộc thiểu số chống Miến dọc theo biên giới, thậm chí có khi còn tích cực ủng hộ và "tài trợ" các nhóm này. Các sắc dân Shan, Mon và Karen không thể chống phá chính phủ Miến lâu dài nếu không có chính phủ Thái ủng hộ, dù là ngầm hay công khai.