✨HMS Seymour (K563)
HMS Seymour (K563) là một tàu frigate lớp Captain của Hải quân Hoàng gia Anh hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó nguyên được Hoa Kỳ chế tạo như chiếc DE-98 (chưa đặt tên), một tàu hộ tống khu trục lớp Buckley, và chuyển giao cho Anh Quốc theo Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease). Nó là chiếc tàu chiến thứ hai được đặt cái tên này, được đặt theo Phó đô đốc Hugh Seymour (1759-1801), hạm trưởng chiếc và đã từng tham gia các cuộc Chiến tranh Độc lập Hoa Kỳ và Chiến tranh Cách mạng Pháp. Nó đã phục vụ cho đến khi chiến tranh kết thúc tại Châu Âu, hoàn trả cho Hoa Kỳ năm 1946, và cuối cùng bị bán để tháo dỡ vào năm 1946.
Thiết kế và chế tạo
Buckley là một trong số sáu lớp tàu hộ tống khu trục được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo nhằm đáp ứng nhu cầu hộ tống vận tải trong Thế Chiến II, sau khi Hoa Kỳ chính thức tham chiến vào cuối năm 1941. Chúng hầu như tương tự nhau, chỉ với những khác biệt về hệ thống động lực và vũ khí trang bị. Động cơ của phân lớp Backley bao gồm hai turbine hơi nước General Electric để dẫn động hai máy phát điện vận hành hai trục chân vịt, và dàn vũ khí chính bao gồm 3 khẩu pháo pháo /50 cal.
Những chiếc phân lớp Buckley (TE) có chiều dài ở mực nước và chiều dài chung ; mạn tàu rộng và độ sâu mớn nước khi đầy tải là . Chúng có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn ; và lên đến khi đầy tải. Hệ thống động lực bao gồm hai nồi hơi và hai turbine hơi nước General Electric công suất , dẫn động hai máy phát điện công suất để vận hành hai trục chân vịt; công suất cho phép đạt được tốc độ tối đa . Con tàu mang theo dầu đốt, cho phép di chuyển đến ở vận tốc đường trường .
Vũ khí trang bị bao gồm pháo /50 cal trên ba tháp pháo nòng đơn đa dụng (có thể đối hạm hoặc phòng không), gồm hai khẩu phía mũi và một khẩu phía đuôi. Vũ khí phòng không tầm gần bao gồm hai pháo Bofors 40 mm và tám pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Con tàu có ba ống phóng ngư lôi Mark 15 . Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và bốn máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu. Thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 200 sĩ quan và thủy thủ.
Seymour được đặt lườn như là chiếc DE-98 (chưa đặt tên) tại xưởng tàu của hãng Bethlehem-Hingham Steel Shipyard ở Hingham, Massachusetts vào ngày 1 tháng 9, 1943 và được hạ thủy vào ngày 1 tháng 11, 1943.
Tiếp tục ở lại khu vực chiến trận trong giai đoạn tiếp theo, Seymour hoạt động tuần tra chống tàu ngầm và tàu E-Boat đối phương. Vào tháng 8, con tàu trải qua một sự kiện gây hoảng sợ. Trong một chuyến tuần tra vào ban đêm, cả con tàu bị rung chuyển mạnh bởi một vụ vụ nổ lớn, toàn bộ tàu bị mất điện và nó chết đứng giữa biển; rõ ràng con tàu đã kích hoạt một quả thủy lôi dò âm Oyster. Tuy nhiên sau khi xem xét, con tàu không chịu bất kỳ hư hại nào, và nguyên nhân mất điện là chấn động của vụ nổ đã khiến cầu dao ngắt mạch.
Sau khi chiến tranh chấm dứt tại châu Âu, Seymour được điều sang Hải đội Rosyth vào tháng 8, thực hiện những chuyến đi sang các cảng Đức để áp tải về Anh 40 tàu buôn được chiếm giữ như những bồi hoàn thiệt hại chiến tranh. Nó tiếp tục trải qua một tháng tại Kristiansand, Na Uy phục vụ như một tàu chỉ huy trước khi quay trở về Devonport. Con tàu viếng thăm Barry Island và Barrow-in-Furness trước khi được sửa chữa trục chân vịt A tại Birkenhead.
Seymour được chính thức hoàn trả cho Hoa Kỳ vào ngày 5 tháng 1, 1946, nhằm giảm bớt chi phí mà Anh phải trả cho Hoa Kỳ trong Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease). Do dư thừa so với nhu cầu về tàu chiến sau khi chiến tranh đã chấm dứt, nó được rút tên khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 15 tháng 2 hoặc 25 tháng 2, 1946, và bị bán để tháo dỡ vào ngày 10 tháng 12, 1946.