✨HMS Rupert (K561)

HMS Rupert (K561)

HMS Rupert (K561) là một tàu frigate lớp Captain của Hải quân Hoàng gia Anh hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó nguyên được Hoa Kỳ chế tạo như chiếc DE-96 (chưa đặt tên), một tàu hộ tống khu trục lớp Buckley, và chuyển giao cho Anh Quốc theo Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease). Nó là chiếc tàu chiến thứ tư của Hải quân Anh được đặt cái tên này, đặt theo Đô đốc Hoàng tử Rupert của Rhine (1619-1682), người đã từng tham gia các cuộc Chiến tranh Anh-Hà Lan thứ hai và thứ ba. Nó đã phục vụ cho đến khi chiến tranh kết thúc tại Châu Âu, hoàn trả cho Hoa Kỳ năm 1946, và cuối cùng bị bán để tháo dỡ vào năm 1946.

Thiết kế và chế tạo

Buckley là một trong số sáu lớp tàu hộ tống khu trục được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo nhằm đáp ứng nhu cầu hộ tống vận tải trong Thế Chiến II, sau khi Hoa Kỳ chính thức tham chiến vào cuối năm 1941. Chúng hầu như tương tự nhau, chỉ với những khác biệt về hệ thống động lực và vũ khí trang bị. Động cơ của phân lớp Backley bao gồm hai turbine hơi nước General Electric để dẫn động hai máy phát điện vận hành hai trục chân vịt, và dàn vũ khí chính bao gồm 3 khẩu pháo pháo /50 cal.

Những chiếc phân lớp Buckley (TE) có chiều dài ở mực nước và chiều dài chung ; mạn tàu rộng và độ sâu mớn nước khi đầy tải là . Chúng có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn ; và lên đến khi đầy tải. Hệ thống động lực bao gồm hai nồi hơi và hai turbine hơi nước General Electric công suất , dẫn động hai máy phát điện công suất để vận hành hai trục chân vịt; công suất cho phép đạt được tốc độ tối đa . Con tàu mang theo dầu đốt, cho phép di chuyển đến ở vận tốc đường trường .

Vũ khí trang bị bao gồm pháo /50 cal trên ba tháp pháo nòng đơn đa dụng (có thể đối hạm hoặc phòng không), gồm hai khẩu phía mũi và một khẩu phía đuôi. Vũ khí phòng không tầm gần bao gồm hai pháo Bofors 40 mm và tám pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Con tàu có ba ống phóng ngư lôi Mark 15 . Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và bốn máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu. Thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 200 sĩ quan và thủy thủ.

Rupert được đặt lườn như là chiếc DE-96 (chưa đặt tên) tại xưởng tàu của hãng Bethlehem-Hingham Steel Shipyard ở Hingham, Massachusetts vào ngày 25 tháng 8, 1943 và được hạ thủy vào ngày 31 tháng 10, 1943.

Trước khi cuộc đổ bộ Normandy diễn ra, Rupert có mặt sẵn sàng tại Devonport từ ngày 2 tháng 6, và vào đúng ngày D đã tham gia vào thành phần sườn phía Tây của lực lượng tấn công đi sang Normandy. Nó sau đó đã hộ tống các tàu chở quân vận chuyển lực lượng tăng viện đi sang các bãi đổ bộ. Nhiệm vụ này kéo dài trong bốn tháng trước khi con tàu được gửi đến Belfast, Bắc Ireland để tham gia Đội hộ tống 21 mới được thành lập.

Vào ngày 27 tháng 3, Rupert phối hợp cùng các tàu chị em ConnDeane tấn công bằng mìn sâu một mục tiêu tại vị trí về phía Tây Bắc mũi Wrath thuộc hạt Sutherland, đánh chìm đối thủ tại tọa độ , thoạt tiên được cho là chiếc U-965, nhưng sau này được xác định là chiếc U-905; toàn bộ 45 thành viên thủy thủ đoàn chiếc U-905 đều tử trận. Chiến công này được xác nhận khi tàu khu trục tấn công xác tàu đắm vài ngày sau đó.

Ba ngày sau đó, 30 tháng 3, Rupert tiếp tục phối hợp cùng Conn tấn công bằng mìn sâu một mục tiêu về phía Tây mũi Wrath, đánh chìm đối thủ tại tọa độ , thoạt tiên được cho là chiếc U-1021, nhưng sau này được xác định là chiếc U-965; toàn bộ 51 thành viên thủy thủ đoàn chiếc U-965 đều tử trận.

Đến ngày 27 tháng 4, tàu ngầm Đức U-1105 phát hiện ba tàu frigate Anh tại vùng biển Bắc Đại Tây Dương cách về phía Tây Ireland, và đã bắn ba quả ngư lôi dò âm G7es (T5) về phía họ. Năm mươi giây sau đó, một quả đánh trúng Redmill tại tọa độ , tiếp nối vài giây sau đó bởi một quả thứ hai, làm thổi tung một phần đuôi tàu dài khoảng . U-1105 đã lẫn tránh được cuộc phản công sau đó. Được Rupert trợ giúp, Redmill tiếp tục nổi được và được kéo về Lisahally, Bắc Ireland.

Sau khi chiến tranh chấm dứt tại châu Âu, Rupert được phái đến Rosyth để hoạt động trong khuôn khổ Chiến dịch Deadlight; nó làm nhiệm vụ kéo những tàu U-boat đã đầu hàng ra giữa Đại Tây Dương để đánh chìm.

Rupert được chính thức hoàn trả cho Hoa Kỳ vào ngày 20 tháng 3, 1946, nhằm giảm bớt chi phí mà Anh phải trả cho Hoa Kỳ trong Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease). Do dư thừa so với nhu cầu về tàu chiến sau khi chiến tranh đã chấm dứt, nó được rút tên khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 17 tháng 4, 1946 và bị bán để tháo dỡ vào ngày 17 tháng 6, 1946.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**HMS _Rupert_ (K561)** là một tàu frigate lớp _Captain_ của Hải quân Hoàng gia Anh hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó nguyên được Hoa Kỳ chế tạo như chiếc DE-96 (chưa