✨HMS Redmill (K554)
HMS Redmill (K554) là một tàu frigate lớp Captain của Hải quân Hoàng gia Anh hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó nguyên được Hoa Kỳ chế tạo như chiếc DE-89 (chưa đặt tên), một tàu hộ tống khu trục lớp Buckley, và chuyển giao cho Anh Quốc theo Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease). Tên nó được đặt theo Đại tá Hải quân Robert Redmill (khoảng 1765-1819), hạm trưởng chiếc và đã từng tham gia các cuộc Chiến tranh Cách mạng Pháp và Chiến tranh Napoleon. Nó đã phục vụ trong chiến tranh cho đến khi bị hư hại nặng do trúng ngư lôi phóng từ tàu ngầm U-1105 tại Đại Tây Dương vào ngày 27 tháng 4, 1945. Vẫn nổi được và được kéo quay trở về cảng, con tàu được xem như một tổn thất toàn bộ, được hoàn trả cho Hoa Kỳ trên danh nghĩa và bị bán để tháo dỡ vào năm 1947.
Thiết kế và chế tạo
Buckley là một trong số sáu lớp tàu hộ tống khu trục được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo nhằm đáp ứng nhu cầu hộ tống vận tải trong Thế Chiến II, sau khi Hoa Kỳ chính thức tham chiến vào cuối năm 1941. Chúng hầu như tương tự nhau, chỉ với những khác biệt về hệ thống động lực và vũ khí trang bị. Động cơ của phân lớp Backley bao gồm hai turbine hơi nước General Electric để dẫn động hai máy phát điện vận hành hai trục chân vịt, và dàn vũ khí chính bao gồm 3 khẩu pháo pháo /50 cal.
Những chiếc phân lớp Buckley (TE) có chiều dài ở mực nước và chiều dài chung ; mạn tàu rộng và độ sâu mớn nước khi đầy tải là . Chúng có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn ; và lên đến khi đầy tải. Hệ thống động lực bao gồm hai nồi hơi và hai turbine hơi nước General Electric công suất , dẫn động hai máy phát điện công suất để vận hành hai trục chân vịt; công suất cho phép đạt được tốc độ tối đa . Con tàu mang theo dầu đốt, cho phép di chuyển đến ở vận tốc đường trường .
Vũ khí trang bị bao gồm pháo /50 cal trên ba tháp pháo nòng đơn đa dụng (có thể đối hạm hoặc phòng không), gồm hai khẩu phía mũi và một khẩu phía đuôi. Vũ khí phòng không tầm gần bao gồm hai pháo Bofors 40 mm và tám pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Con tàu có ba ống phóng ngư lôi Mark 15 . Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và bốn máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu. Thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 200 sĩ quan và thủy thủ.
Redmill được đặt lườn như là chiếc DE-89 (chưa đặt tên) tại xưởng tàu của hãng Bethlehem-Hingham Steel Shipyard ở Hingham, Massachusetts vào ngày 14 tháng 7, 1943, được hạ thủy vào ngày 2 tháng 10, 1943,
Trong Chiến dịch Neptune, hoạt động hải quân trong khuôn khổ cuộc đổ bộ Normandy, Redmill đảm nhiệm hộ tống cho đi đến vị trí bắn phá ngoài khơi bãi đổ bộ, và tiếp tục tuần tra chống tàu ngầm chung quanh chiếc tàu monitor này. Nó trở thành chiếc tàu frigate lớp Captain duy nhất trực tiếp bắn phá mục tiêu đối phương trong cuộc đổ bộ này.
Đến ngày 27 tháng 4, tàu ngầm Đức U-1105 phát hiện ba tàu frigate Anh tại vùng biển Bắc Đại Tây Dương cách về phía Tây Ireland, và đã bắn ba quả ngư lôi dò âm G7es (T5) về phía họ. Năm mươi giây sau đó, một quả đánh trúng Redmill tại tọa độ , tiếp nối vài giây sau đó bởi một quả thứ hai, làm thổi tung một phần đuôi tàu dài khoảng . U-1105 đã lẫn tránh được cuộc phản công sau đó. Được tàu frigate chị em Rupert trợ giúp, Redmill tiếp tục nổi được và được kéo về Lisahally, Bắc Ireland.
Không thể sửa chữa một cách hiệu quả kinh tế, Redmill được xem như là một tổn thất toàn bộ. Con tàu được hoàn trả trên danh nghĩa cho Hoa Kỳ vào ngày 20 tháng 1, 1947, nhằm giảm bớt chi phí mà Anh phải trả cho Hoa Kỳ trong Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease). Con tàu được bán cho hãng Athens Piraeus Electricity Company, Ltd. tại Athens, Hy Lạp để tháo dỡ vào ngày 30 tháng 1, 1947 hoặc 4 tháng 2, 1947, và nó được rút tên khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 7 tháng 2, 1947.