✨HMS Aylmer (K463)
HMS Aylmer (K463) là một tàu frigate lớp Captain của Hải quân Hoàng gia Anh hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó nguyên được Hoa Kỳ chế tạo như chiếc USS Harmon (DE-72), một tàu hộ tống khu trục lớp Buckley, và chuyển giao cho Anh Quốc theo Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease). Tên nó được đặt theo Chuẩn đô đốc Matthew Aylmer (1650-1720), hạm trưởng chiếc và từng tham gia cuộc Chiến tranh Chín Năm. Nó đã phục vụ cho đến khi chiến tranh kết thúc tại Châu Âu, hoàn trả cho Hoa Kỳ năm 1945, và cuối cùng bị bán để tháo dỡ vào năm 1946.
Thiết kế và chế tạo
Buckley là một trong số sáu lớp tàu hộ tống khu trục được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo nhằm đáp ứng nhu cầu hộ tống vận tải trong Thế Chiến II, sau khi Hoa Kỳ chính thức tham chiến vào cuối năm 1941. Chúng hầu như tương tự nhau, chỉ với những khác biệt về hệ thống động lực và vũ khí trang bị. Động cơ của phân lớp Backley bao gồm hai turbine hơi nước General Electric để dẫn động hai máy phát điện vận hành hai trục chân vịt, và dàn vũ khí chính bao gồm 3 khẩu pháo pháo /50 cal.
Những chiếc phân lớp Buckley (TE) có chiều dài ở mực nước và chiều dài chung ; mạn tàu rộng và độ sâu mớn nước khi đầy tải là . Chúng có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn ; và lên đến khi đầy tải. Hệ thống động lực bao gồm hai nồi hơi và hai turbine hơi nước General Electric công suất , dẫn động hai máy phát điện công suất để vận hành hai trục chân vịt; công suất cho phép đạt được tốc độ tối đa . Con tàu mang theo dầu đốt, cho phép di chuyển đến ở vận tốc đường trường .
Vũ khí trang bị bao gồm pháo /50 cal trên ba tháp pháo nòng đơn đa dụng (có thể đối hạm hoặc phòng không), gồm hai khẩu phía mũi và một khẩu phía đuôi. Vũ khí phòng không tầm gần bao gồm hai pháo Bofors 40 mm và tám pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Con tàu có ba ống phóng ngư lôi Mark 15 . Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và bốn máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu. Thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 200 sĩ quan và thủy thủ.
Con tàu được đặt lườn như là chiếc DE-71 tại xưởng tàu của hãng Bethlehem-Hingham Steel Shipyard ở Hingham, Massachusetts vào ngày 12 tháng 4, 1943, được đặt tên Harmon vào ngày 18 tháng 5, 1943 và nhập biên chế cùng Hải quân Anh như là chiếc HMS Aylmer (K462) vào ngày 30 tháng 9, 1943 Nabob tiếp tục di chuyển được bằng chính hệ thống động lực của mình với tốc độ trung bình , và được hộ tống rút lui về Rosyth. Sau khi những nỗ lực nhằm cứu Bickerton được xem là quá mạo hiểm, nó bị tàu khu trục phóng ba quả ngư lôi đánh chìm, và Trung tá MacIntyre sau đó chuyển cờ hiệu của mình sang Aylmer.
Với mũi tàu bị hư hại sau cú húc, Aylmer được và hộ tống đi đến Holyhead, Wales để sửa chữa. Tuy nhiên do xưởng tàu tại đây quá nhỏ không có đủ khả năng, nó tiếp tục đi đến đến Liverpool. Khi công việc hoàn tất vào đầu tháng 4, nó quay lại tiếp nối vai trò soái hạm của Đội hộ tống 5. Nó đang có mặt tại cảng nhà Belfast vào ngày 8 tháng 5 khi chiến tranh kết thúc tại châu Âu, và đến ngày 10 tháng 5, nó được phái đến Loch Alsh, Scotland để hỗ trợ hoạt động bắt giữ thủy thủ đoàn các tàu ngầm U-boat.
Aylmer được chính thức hoàn trả cho Hoa Kỳ tại Xưởng hải quân New York vào ngày 5 tháng 11, 1945, nhằm giảm bớt chi phí mà Anh phải trả cho Hoa Kỳ trong Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease). Con tàu được rút tên khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 19 tháng 12, 1945, rồi được bán cho John J. Witto tại Staten Island, New York vào ngày 9 tháng 6, 1947 để tháo dỡ.