✨Hisaishi Joe

Hisaishi Joe

, tên thật là , sinh ngày 6 tháng 12 năm 1950, là nhà soạn nhạc của hơn 100 tác phẩm soundtracks cho các bộ phim và các tác phẩm độc tấu khác, nằm trong những album được phát hành từ năm 1981 trở lại đây.

Sở hữu một phong cách nghệ thuật đặc biệt trong âm nhạc, Hisaishi được biết đến với công chúng bằng những tác phẩm mang sự kết hợp chặt chẽ của nhiều thể loại khác nhau. Các tác phẩm vừa mang hơi thở của minimalist (một thể loại nhạc thử nghiệm), vừa mang phong cách của nhạc điện tử, nhạc cổ điển châu Âu và âm nhạc dân gian Nhật Bản.

Tên tuổi của Joe Hisaishi bắt đầu được nhiều người biết đến sau những tác phẩm anime của họa sĩ phim hoạt hình Miyazaki Hayao. Joe đã viết nhạc cho tất cả các bộ phim của Miyazaki bao gồm Cô bé người cá Ponyo (2008), Sen và Chihiro ở thế giới thần bí (2001), Lâu đài bay của pháp sư Howl (2004), Công chúa sói Mononoke (1997), Hàng xóm của tôi là Totoro (1988), và Nausicaä của Thung lũng gió (1984). Ngoài ra ông còn viết nhạc cho nhà sản xuất phim Takeshi Kitano với các bộ phim Dolls (2002), Kikujiro (1999), Hana-bi (1997), Kids Return (1996), Sonatine (1993).

Sự nghiệp

Joe Hisaishi sinh ra và lớn lên ở Nakano, Nagano, Nhật Bản. Khi mới lên 5, ông đã được học violin và phát hiện ra niềm đam mê của mình đối với âm nhạc. Năm 1969 ông vào học trường cao đẳng âm nhạc Kunitachi ngành sáng tác. Ông bắt đầu cộng tác với một số nghệ sĩ nhạc chủ nghĩa tối giản làm công việc ghi chép nhạc, công việc đã góp một phần không nhỏ đến sáng tác của Joe sau này.

Thành công đầu tiên của ông là vào năm 1974 khi ông viết nhạc cho một bộ phim hoạt hình ngắn có tên là Gyatoruzu. Nhưng lúc đó ông vẫn để tên thật của mình cùng với những bản nhạc. Trong thời kỳ này, ông còn sáng tác nhạc cho Sasuga no Sarutobi (Học viện Ninja) và Futari Taka (A Full Throttle).

Những năm 1970 là giai đoạn các tác phẩm nhạc hiện đại Nhật Bản, new-age, nhạc khí điện tử bắt đầu tràn lan trên đất nước mặt trời mọc. Tất cả những thể loại nhạc này, cũng như là nhạc của Yellow Magic Orchestra (một nhóm nhạc điện tử của Nhật khá nổi trong khoảng thời gian từ 1978–1983), đã làm ảnh hưởng tới sáng tác của Joe Hisaishi. Ông phát triển âm nhạc của mình từ những ý tưởng trong nhạc minimalist nhưng hướng chúng trở thành tác phẩm giao hưởng. Trong năm 1975, Hisaishi đã có buổi diễn trước công chúng lần đầu. Album đầu tay của ông, MKWAJU, được phát hành năm 1981, một năm sau đó tiếp tục tung ra Information.

Khi bắt đầu nổi tiếng, ông lấy cho mình một bí danh xuất phát từ nhà soạn nhạc người Mỹ gốc Phi tên là Quincy Jones, phiên âm sang tiếng Nhật trở thành Joe Hisaishi ("Quincy" phát âm trong tiếng Nhật là "Kuishi, nhưng có thể viết dưới hệ thống chữ kanji là "Hisaishi", còn "Joe" phiên âm từ "Jones")

Năm 1983, với tên mới của mình, Hisaishi được giới thiệu đến một công ty thu âm cho nhạc phim Nausicaä của thung lũng gió. Hisaishi cùng với đạo diễn của bộ phim này - Miyazaki Hayao - đã trở thành những người bạn rất thân thiết và họ đã cùng làm việc với nhau trong rất nhiều dự án sau đó. Sự thành công to lớn này đã đưa tên tuổi Joe đến khắp nơi với vai trò một người viết nhạc phim xuất sắc. Năm 1986, ông tiếp tục viết cho Laputa: Lâu đài trên không, rồi sau đó, vào những năm 1990, Công chúa MononokeSen và Chihiro ở thế giới thần bí tiếp tục được phát hành.

Là một trong những nhà soạn nhạc có cống hiến lớn nhất cho các bộ phim hoạt hình, Hisaishi không ngừng nỗ lực viết nhạc trong những năm 80 và 90. Hisaishi còn sáng tác nhạc cho những bộ phim xếp hàng top hits như Sasuga no Sarutobi, Two Down Full Base (1982), Sasrygar (1983), Futari Taka (1984) và Honō no Alpen Rose (1985). Ông cũng viết nhạc cho thể loại phim phiêu lưu viễn tưởng Mospeada (1983). Ngoài ra còn có phim Arion, Hàng xóm của tôi là Totoro (1988), Venus Wars, Dịch vụ giao hàng của phù thủy Kiki (1989), và Porco Rosso (1992).

Cùng với sự kết hợp âm nhạc trong ngành công nghiệp phim hoạt hình, Joe tiếp tục sự nghiệp của mình với vai trò một nhà sản xuất nhạc, một nghệ sĩ biểu diễn tài năng và làm chủ một công ty riêng của mình với cái tên Wonder Land Inc. Một năm sau, công ty cho phát hành album đầu tiên, Pretender ở Thành phố New York.

Sau tất cả những thành quả đạt được trong từng ấy năm, Joe Hisaishi đã giành được giải thưởng âm nhạc xuất sắc nhất của viện hàn lâm Nhật Bản 6 lần: năm 1992, 1993, 1994, 1999, 2000 và mới nhất là năm 2009. Ông cũng nhận được giải Newcomer Award lần thứ 48 của Bộ giáo dục cùng nhiều giải thưởng khác, trở thành một nhân vật tiêu biểu của ngành công nghiệp điện ảnh Nhật.

Năm 1998, ông viết nhạc cho Thế vận hội Mùa đông 1998 (tổ chức ở Nagano, Nhật Bản). Năm sau đó, ông viết nhạc cho tập 3 của một series phim hoạt hình giáo dục về loài người.

Năm 2001, Hisaishi sản xuất nhạc cho phim của Kitano Takeshi, Brother, và tác phẩm kinh điển của Miyazaki Hayao, Sen và Chihiro ở thế giới thần bí. Ông cũng viết bản giao hưởng 4 chương Night Fantasia trong hội chợ Expo Nhật Bản ở Fukushima năm 2001. Vào ngày 6 tháng 10, Hisaishi góp mặt trong bộ phim Quartet, trong đó, nhân vật của ông là một nhà làm phim, vừa viết nhạc vừa viết kịch bản. Bộ phim đã nhận được rất nhiều khen ngợi tại liên hoan phim Montreal. Và trong cùng năm ấy, Joe cũng đã viết bản nhạc đầu tiên dành cho một bộ phim nước ngoài tên là Le Petit Poucet.

Joe Hisaishi, 2011

Một bộ phim nữa của Miyazaki mà Joe cũng viết nhạc, đó là Lâu đài bay của pháp sư Howl, được phát hành ngày 20 tháng 11 năm 2004 ở Nhật. Từ mùng 3 tháng 11 đến 29 tháng 11 năm 2004, Joe bắt đầu chuyến lưu diễn "Joe Hisaishi Freedom – Piano Stories 2004" cùng các nhạc công người Canada. Năm 2005, ông viết nhạc cho một bộ phim Hàn Quốc Welcome to Dongmakgol (웰컴 투 동막골). Ông còn tới những địa danh lịch sử ở Hàn Quốc, nơi mà các trường quay được dựng để viết nhạc cho bộ phim truyền hình The Legend (태왕사신기 "The Story of the First King's Four Gods") của đài MBC, chiếu trên màn ảnh năm 2007. Cũng từ đó, Hisaishi có một lượng lớn fan hâm mộ ở Hàn Quốc, và các bộ phim của Miyazaki cũng trở nên nổi tiếng.

Năm 2006, Hisaishi phát hành album Asian X.T.C, bao gồm những tác phẩm nhạc khí đương đại phương Đông. Nghệ sĩ chơi đàn erhu trong ban nhạc 12 Girls Band của Trung Quốc - Zhan Li Jun đã biểu diễn trong buổi hòa nhạc giới thiệu cho album này. Năm sau đó, ông lại sáng tác nhạc cho bộ phim của Frederic Lepage, Sunny and the Elephant và bộ phim mới nhất của Miyazaki, Ponyo, cả hai bộ phim đều được công chiếu năm 2008. Ngoài ra còn có một bộ phim nữa của Khương Văn (Trung Quốc) tên là Mặt Trời vẫn mọc.

Năm 2008, Joe viết nhạc cho bộ phim được giải của viện hàn lâm tên là Người tiễn đưaWatashi wa Kai ni Naritai (私は貝になりたい), một bộ phim tái hiện những tội ác trong Thế chiến thứ 2, dựa trên cuốn tiểu thuyết viết năm 1959 của nhà văn Kato Tetsutaro. Bộ phim do đạo diễn Fukuzawa Katsuo dựng lại, cùng các diễn viên chính là Nakai Masahiro và Nakama Yukie.

Tháng 11 năm 2009, Joe Hisaishi được nhận Huân chương danh giá màu tím (dành cho những người có cống hiến lớn trong nghệ thuật của hoàng gia) do chính phủ Nhật Bản trao tặng để ghi nhận những đóng góp của ông.

Năm 2013, Hisaishi soạn nhạc cho Chuyện công chúa Kaguya, mà ban đầu lẽ ra sẽ được soạn bởi Shinichiro Ikebe. Đây là một bộ phim hoạt hình chuyển thể từ câu chuyện cổ tích Nhật Bản "Nàng tiên trong ống tre" được thực hiện bởi Studio Ghibli, cũng là tác phẩm cuối cùng của đạo diễn Takahata Isao, khi ông mất vào 5 tháng 4 năm 2018.

Các album

1980 - 1989

1990 - 1999

2000 - 2009

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
, tên thật là , sinh ngày 6 tháng 12 năm 1950, là nhà soạn nhạc của hơn 100 tác phẩm soundtracks cho các bộ phim và các tác phẩm độc tấu khác, nằm trong
là một bộ phim điện ảnh hoạt hình kỳ ảo của Nhật Bản công chiếu năm 2001, do Miyazaki Hayao làm đạo diễn kiêm phụ trách kịch bản. Tác phẩm do xưởng phim Studio Ghibli
**_Lâu đài bay của pháp sư Howl_** (tiếng Nhật: ハウルの動く城, Hepburn: _Hauru no Ugoku Shiro_, tiếng Anh: **_Howl's Moving Castle_**), hay **_Lâu đài di động của Howl_**, là một bộ phim điện ảnh hoạt hình
**_Ni no Kuni: Wrath of the White Witch_** là trò chơi điện tử nhập vai do hãng Level-5 và Studio Ghibli cùng phối hợp phát triển. Trò chơi phát hành cho PlayStation 3 ở Nhật
là một nhà soạn nhạc, cải biên nhạc, viết ca từ, nghệ sĩ dương cầm và nhà sản xuất nhạc người Nhật Bản, được biết đến qua nhiều bộ anime, trò chơi điện tử, phim
(tiếng Anh: **Studio Ghibli, Inc.**) là một hãng phim hoạt hình Nhật Bản có trụ sở tại Koganei, Tokyo, Nhật Bản. Hãng được biết đến nhiều nhất qua việc sản xuất ra các bộ phim
**_Cô bé người cá Ponyo_** (tiếng Nhật: 崖の上のポニョ, がけのうえのポニョ, **Gake no Ue no Ponyo**, dịch nghĩa: _Ponyo trên vách đá_, thường gọi **Ponyo**) là một bộ phim anime thực hiện bởi Studio Ghibli công chiếu
**_enigmaticLIA4_** là album phòng thu thứ năm mang phong cách Happy hardcore của nữ ca sĩ người Nhật Lia, do queens label thuộc Visual Art's sản xuất. Album mang mã số lô hàng _QLCD-0021~2_, phát
là một nhà soạn nhạc người Nhật đến từ tỉnh Hyōgo, Nhật Bản và là một trong những thành viên chủ chốt của công ty phần mềm Key. Trước khi thành lập Key, Orito làm
là một phim điện ảnh hoạt hình kỳ ảo của Nhật Bản, do Studio Ghibli thực hiện với kịch bản, sản xuất và đạo diễn bởi Miyazaki Hayao. Truyện phim xoay quanh một nữ phù
là vận động viên trượt băng nghệ thuật chuyên nghiệp và cựu vận động viên trượt băng nghệ thuật cạnh tranh người Nhật Bản thi đấu ở hạng mục đơn nam. Anh là nhà vô
là một phim anime phát hành vào mùa thu năm 2013 của Studio Ghibli, kịch bản và đạo diễn bởi Takahata Isao. Phim được dựa trên truyện cổ tích _Nàng tiên trong ống tre._ ##
**Mei to Koneko Bus** (めいとこねこバス) là một phim anime ngắn do Miyazaki Hayao viết và đạo diễn như một phần của loạt phim ngắn được thực hiện để trình chiếu tại viện bảo tàng Ghibli
là một bộ phim điện ảnh Nhật Bản thuộc thể loại chính kịch ra mắt vào năm 2008 do Takita Yōjirō làm đạo diễn, với sự tham gia diễn xuất của các diễn viên chính
**_Hàng xóm của tôi là Totoro_** là một vở kịch sân khấu được dựa trên bộ anime cùng tên của Studio Ghibli vào năm 1988 do Hayao Miyazaki làm đạo diễn. Tác phẩm chuyển thể
, phát hành tại Mỹ với tên **_Fireworks_**, là một bộ phim điện ảnh chính kịch tội phạm năm 1997 của Nhật Bản, được viết, đạo diễn và biên tập bởi Takeshi Kitano, anh cũng
**_Kikujiro_** () là một bộ phim của Nhật Bản năm 1999 với sự tham gia, biên kịch và đạo diễn bởi Kitano Takeshi. Phần nhạc phim được sáng tác bởi Joe Hisaishi. Bộ phim đã
, thường được gọi ngắn gọn là là một nhà thi đấu nằm trong Bắc Hoàn Công Viên (quần thể của Hoàng Cung Nhật Bản) ở Chiyoda, Tokyo, Nhật Bản. Mặc dù ban đầu Budokan
**_Laputa: Lâu đài trên không_** (Nhật: 天空の城ラピュタ, てんくうのしろラピュタ, **Tenkuu no Shiro Laputa**) là một bộ phim năm 1986, biên kịch và đạo diễn bởi Hayao Miyazaki. Đây là bộ phim đầu tiên mà Studio Ghibli
Ngày **6 tháng 12** là ngày thứ 340 (341 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 25 ngày trong năm. ## Sự kiện *1534 – Những người định cư Tây Ban Nha thành lập nên
**_Hàng xóm của tôi là Totoro_** (となりのトトロ / _Tonari no Totoro_ trong tiếng Nhật, _My Neighbor Totoro_ trong tiếng Anh) là một bộ phim điện ảnh hoạt hình Nhật Bản được hãng Ghibli sản xuất
là một bộ phim anime lấy đề tài sử thi giả tưởng của đạo diễn Miyazaki Hayao do hãng phim Ghibli sản xuất năm 1997. không phải là một cái tên, đây là cách gọi
**Âm nhạc Nhật Bản** bao gồm nhiều thể loại với nhiều cách thể hiện khác nhau trong cả âm nhạc hiện đại lẫn truyền thống. Âm nhạc trong tiếng Nhật gọi là 音楽 (_ongaku_), là
**Jung Sung-ha **(tiếng Hàn: 정성하, Romaja Quốc ngữ: _Jeong Seong-ha_, sinh ngày 2 tháng 9 năm 1996), thường được biết đến với nghệ danh **Sungha Jung** (đảo ngược họ tên), là một nam nhạc sĩ
là một anime khoa học viễn tưởng lãng mạn do Hosoda Mamoru đạo diễn, vẽ bởi Madhouse và Warner Bros. Pictures làm khâu phân phối đã công chiếu vào ngày 01 tháng 8 năm 2009.
**_Porco Rosso_** (紅の豚, くれないのぶた, **Kurenai no Buta**) là bộ phim anime thứ sáu do Miyazaki Hayao đạo diễn và sản xuất bởi Studio Ghibli, công chiếu lần đầu tiên năm 1992. Phim lấy bối cảnh
nhỏ|Tứ tấu đàn dây biểu diễn một nhạc phẩm nhẹ nhàng. Trong âm nhạc, **divertimento** (phát âm tiếng Việt: /đi-vec-ti-men-tô/; tiếng Anh: /dɪˌvɜːrtɪˈmɛntoʊ /) là một thể loại âm nhạc giải trí, tạo cảm giác
**Milan Records** là một hãng thu âm đặt tại Los Angeles, California, chuyên phát hành các nhãn đĩa và album nhạc phim. ## Lịch sử Milan Entertainment được thành lập vào năm 1978 bởi Emmanuel
**_Bao giờ trăng sáng_** (tiếng Trung: _明月幾時有_, tiếng Anh: _Our Time Will Come_, Hán-Việt: _Minh nguyệt cơ thời hữu_) là một bộ phim điện ảnh Hồng KôngTrung Quốc thuộc thể loại chiến tranhlãng mạnchính kịch
nhỏ|David Oistrakh đang biểu diễn một bản concerto cho vĩ cầm năm 1960 **Concerto cho vĩ cầm** là một bản hòa tấu dành cho vĩ cầm độc tấu (đôi khi là hai hoặc nhiều hơn)