✨Hiệp Hòa

Hiệp Hòa

Hiệp Hòa (chữ Hán: 協和; 1 tháng 11 năm 1847 – 29 tháng 11 năm 1883), húy là Nguyễn Phúc Hồng Dật (阮福洪佚), sau khi lên ngôi đổi thành Nguyễn Phúc Thăng (阮福昇), là vị hoàng đế thứ sáu của triều đại nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Trong khoảng thời gian trị vì ngắn ngủi của mình, ông chỉ sử dụng một niên hiệu là Hiệp Hòa nên thường được gọi theo tên này. Ông không có miếu hiệu, được hậu duệ truy tặng làm Văn Lãng Quận vương (文朗郡王), thụy là Trang Cung (莊恭). Thời gian trị vì của ông là 4 tháng 10 ngày tổng cộng 130 ngày.

Thân thế

Hiệp Hòa có húy là Hồng Dật (洪佚), là con trai thứ 29, và cũng là út nam của vua Thiệu Trị, mẹ là Tam giai Thụy tần Trương Thị Thận.

Năm Tự Đức thứ 18 (1865), Hồng Dật được vua anh phong làm Lãng Quốc công (朗國公). Theo truyền thống hoàng tộc Nguyễn Phúc có từ thời Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát, các hoàng tử sinh ra để dễ nuôi nên được gọi là Mệ, vì vậy thuở nhỏ vua Hiệp Hòa còn được gọi là Mệ Mến.

Ngoài vua Hiệp Hòa, bà Thụy tần Trương thị còn sinh được 6 người con khác là Phong Lộc Quận công Hồng Kháng, hoàng nữ Ủy Thanh, hoàng nữ Liêu Diệu, hoàng nữ Nhàn Nhã và Lạc Thành Công chúa Nhàn Đức.

Gia quyến

Vua Hiệp Hòa có tất cả 11 hoàng tử và 6 hoàng nữ. Người con trai thứ hai của ông là Ưng Hiệp được lấy làm thừa tự cho người anh ruột là quận công Hồng Kháng, và một hoàng nữ của Hiệp Hòa có tên là Ngọc Phả.

Hai người con trai khác của vua Hiệp Hòa là Ưng Bác, tập phong Văn Lãng Hương công, và Ưng Chuẩn, làm Án sát sứ tỉnh Quảng Nam. Công tôn Bửu Trác, con trai của công tử Ưng Bác, được sung chức thống chế nhất phẩm.

Con cháu của vua Hiệp Hòa được ngự chế ban bộ Thập (十) để đặt tên. Dưới triều Khải Định được ban thêm bộ Ngưu (牛).

Bị ép lên ngôi vua

Năm 1883, Tự Đức băng hà mà không có con nối dõi. Theo di chiếu, người con nuôi là Nguyễn Phúc Ưng Chân (tức vua Dục Đức) lên nối ngôi nhưng chỉ 3 ngày, thậm chí chưa kịp đặt niên hiệu, thì Ưng Chân bị hai Phụ chính Đại thần là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường hạch tội để phế bỏ và bị bỏ đói đến chết vào ngày 06/10/1883.

Đồng thời với việc truất phế Dục Đức, hai Phụ chính trên đề nghị lên Hoàng thái hậu Từ Dụ, đưa Lãng Quốc công lên làm vua.

Nhà Hồng Dật ở Kim Long (Huế). Theo Phạm Khắc Hòe (1902-1995), nguyên là Ngự tiền Văn phòng Đổng lý của Bảo Đại, khi đình thần ra đó rước, dù năn nỉ mấy, Hồng Dật cũng không đi, nên cuối cùng phải dùng đến vũ lực mới đưa được ông vào Tử Cấm thành.

Hai hôm sau, 30 tháng 7 năm 1883, Hồng Dật lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Hiệp Hòa.

Bị phế truất và qua đời

Sách Việt Nam sử lược chép: :Trong Huế thì vua Hiệp Hòa cũng muốn nhận chính sách bảo hộ để cho yên ngôi vua, nhưng các quan có nhiều người không chịu, và lại thấy Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết chuyên chế thái quá, muốn dùng kế mà trừ bỏ đi, bèn đổi Nguyễn Văn Tường sang làm Binh bộ Thượng thư, Tôn Thất Thuyết làm Lại bộ Thượng thư, để bớt binh quyền của Tôn Thất Thuyết. :Hai người thấy vua có lòng nghi, sợ để lâu thành vạ, bèn vào tâu với bà Từ Dụ Thái hậu để lập ông Dưỡng Thiện là con nuôi thứ ba của vua Dực Tông [vua Tự Đức], rồi bắt vua Hiệp Hòa đem ra phủ ông Dục Đức cho uống thuốc độc chết. Vua Hiệp Hòa làm vua được hơn 4 tháng, sử gọi là Phế Đế. :Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đã giết vua Hiệp Hòa rồi, lại thấy quan Phụ chính Trần Tiễn Thành không theo ý mình, cũng sai người giết nốt. Vua Hiệp Hòa mất ngày 30 tháng 10 năm Quý Mùi, tức 29 tháng 11 năm 1883. Năm 1891, vua Thành Thái truy phong cho ông làm Văn Lãng Quận vương (文朗郡王), thụy là Trang Cung (莊恭).

Theo Oscar Chapuis, khi Hiệp Hòa lên ngôi vua thì ông đã 36 tuổi, đủ chín chắn để nhận thấy sự chuyên quyền của các quan Phụ chính Đại thần, nên không hài lòng. Các quan đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết cũng nhận thấy thái độ của nhà vua nên cũng có ý muốn phế vua.

Năm 1883, Hiệp Hòa buộc phải ký Hiệp ước Harmand với Pháp với những điều khoản nặng nề, như nước Nam phải chấp nhận sự bảo hộ của Pháp và Pháp có quyền kiểm soát quan hệ của nước Nam với các quốc gia khác, kể cả Trung Hoa; và tỉnh Bình Thuận phải nhập vào Nam Bộ do Pháp chiếm làm thuộc địa. Với bản hiệp ước này, uy tín vua Hiệp Hòa trong triều đình cũng như với dân chúng bị tổn hại nghiêm trọng.

Trong triều đình, Tôn Thất Thuyết ra mặt chống vua, như không chịu quỳ lạy và to tiếng với nhà vua. Sự thù nghịch này làm vua Hiệp Hòa lo ngại cho tính mạng của mình, nên tìm kiếm sự hỗ trợ từ phía Khâm sứ Pháp De Champeaux, tìm cách bãi bỏ các quan Phụ chính đại thần. Không may cho vua Hiệp Hòa, việc này bị Tôn Thất Thuyết phát hiện nên Tôn Thất Thuyết ra tay trước.

Thông tin thêm việc bị bức tử

nhỏ|Minh họa vua Hiệp Hòa Việc bị bức tử, theo Việt sử tân biên (Quyển 5, Tập thượng) thì: :"Vua Hiệp Hòa thấy ông Tường và ông Thuyết có lập trường chính trị trái ngược mình, liền viết một bức thư giao cho Hồng Sâm, vừa là Bí thư vừa là anh em thúc bá của mình, để mang qua tòa Khâm để nhờ tay Pháp hạ hai quan Phụ chính trên. :Việc lén lút này, bị Nội giám Đạt biết được, mách với ông Tường. Và ông Tường bắt được lá thư nằm trong chiếc hộp sơn, có đóng dấu của nhà vua. :Ngay trưa hôm ấy (29 tháng 11 năm 1883), sau khi truyền đóng hết tất cả các cửa Hoàng thành lại, triều thần nhóm họp bất thường hạch tội vua Hiệp Hòa. Nhà vua bị buộc ba tội: :-Thâm lạm công nhu. :-Không chịu nghe lời khuyến cáo của các quan phụ chính. :-Tư thông với đại diện của Pháp. :Vua Hiệp Hòa không cãi được, triều đình buộc ông phải thoái vị...

:Sau khi ký tên và đóng dấu son vào tờ tuyên ngôn, vua Hiệp Hòa không được nói một lời nào nữa. Trong khi ông trở về Nội cung thì bản án tử hình ông đã được quyết định. Chừng một giờ sau, võ tướng Ông Ích Khiêm được cử ra thi hành bản án... Ông vua vừa bị phế do dự một lát rồi chọn chén độc dược. Vào khoảng 4 giờ, người ta khuyên ông về đến tư thất rồi trút hơi tàn vào khoảng mặt trời lặn. Sáng hôm sau, hoàng thân Hồng Sâm cũng bị xử chém chết, vì tội đồng lõa với Hiệp Hòa để bán nước. Ông Trần Tiễn Thành, bấy lâu không đồng chính kiến với ông Thuyết, và cũng vì không chịu ký tên vào tờ phế truất vua Hiệp Hòa, cũng bị ông Thuyết cho lính Thân nghĩa đến tận nhà đâm chết. Sợ quá, Tuy Lý vương dẫn vợ con chạy ra cửa Thuận An nương nhờ Picard Destelan, chỉ huy tàu Vipère, nhưng rồi cũng bị bắt đày vào Quảng Ngãi (1884). :Cuộc khủng hoảng chính trị này đã làm cho phe thân Pháp, phe chủ hòa mất tinh thần. Làn không khí khủng bố bao trùm khắp kinh thành Thuận Hóa".

Kể lại cái chết thảm của nhà vua, trong sách Đại Nam thực lục có đoạn: :"Lúc bấy giờ, vua sai thái giám là Trần Đạt đem tờ chiếu nhường ngôi, yêu cầu lui về chỗ phủ cũ. Hai người giả cách nhận lời, sai Tôn Thất Thạ đem võng đưa vua cùng phi tần nội cung cho về phủ cũ (ở địa phận xã Phú Xuân). Nhưng mật dặn riêng Ích Khiêm, Văn Đễ trực trước ở ngoài cửa Hiển Nhân, đón đường sai đưa vua đến nhà Hộ Thành, cho uống thuốc độc giết đi... Lúc bấy giờ những phi tần đã cho về trước để hộ vệ đưa vua. Khi đến đấy, Ích Khiêm, Văn Đễ cho thuốc độc vào nước chè dâng lên, vua không chịu uống. Văn Đễ ra lạy khóc khuyên rằng: Vua tôi đến lúc biến không thể làm thế nào được. Vua nói rằng: Ta lại không được bằng Thụy quốc công [Dục Đức] à ? Còn lần chần không uống. Ích Khiêm bèn đem nước chè ấy đổ vào miệng vua. Lập tức phát lên như người phải gió. Một lúc lâu Trần Xuân Soạn ra truyền nói rằng: Nếu để chậm quá sẽ phải tội nặng, lập tức lấy tay bóp họng vua lè lưỡi, lồi mắt ra, rồi vua mới chết. Đến lúc đưa vua về phủ, thấy chỗ cổ họng vua sưng như cái cung giương lên, ai cũng thấy làm lạ. Ích Khiêm, Văn Đễ vào bảo rằng: Lãng quốc công đến đấy đã uống thuốc độc chết rồi. Hai người bèn rước Hoàng tử thứ 3 [Kiến Phúc] vào ở điện Hoàng Phước, đợi sẽ chọn ngày tốt tôn lên làm vua"...

Vấn đề đầu hàng thực dân Pháp

Tin rằng vấn đề Bắc Kỳ chỉ có thể được giải quyết ở Huế, bộ chỉ huy Pháp liền lợi dụng việc hai quan Phụ chính là Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết vừa phế truất và bắt giam vua Dục Đức, để dương oai.

Trong khi bộ binh của tướng Bouet bận việc quân ở Bắc Kỳ, tướng Courbet đem hạm đội tới đánh cửa Thuận An ngày 18 tháng 8 năm 1883. Trước sức mạnh của đại bác, triều đình Huế phải đề nghị hưu chiến. Và Tổng ủy François Jules Harmand đã tới Huế để thương lượng và rồi một hòa ước được ký kết ngày 25 tháng 8 năm 1883, dưới thời vua Hiệp Hòa, đó chính là Hòa ước Quý Mùi hay còn gọi là Hòa ước Harmand. Bản hiệp ước này công nhận Pháp có quyền "bảo hộ" trên toàn Việt Nam, Pháp có quyền can thiệp vào các vấn đề về nội trị và ngoại giao của Việt Nam. Trên thực tế, với bản hiệp ước này, Hiệp Hòa đã đầu hàng và trao chủ quyền đất nước cho thực dân Pháp.

Nguyễn Thế Anh viết: Vua Hiệp Hòa lại chủ trương hóa giải. Chính sách đó, được coi là quá nhu nhược, nên bị ép uống thuốc độc chết.

Còn theo sách Lịch sử Việt Nam (1858 - cuối thế kỷ XIX), thì từ sau Hòa ước Quý Mùi, phong trào chống đối lại sự đầu hàng của triều đình càng thêm rộng khắp. Ấy vậy mà vua Hiệp Hòa còn nghe theo Khâm sứ De Champeaux, cử người ra Bắc để triệu hồi các võ tướng đang trấn giữ ở nơi đó về kinh. Những việc làm mang tính đầu hàng Pháp của nhà vua đã khiến nhiều người thêm phẫn nộ. Tuy cả hai lần đều bị thất bại, các tướng như Hoàng Tá Viêm, Trương Quang Đản, Ngô Tất Ninh... đều không tuân lệnh và đều ở lại để cùng nhân dân tiếp tục kháng Pháp.

Và cũng theo sách trên, ngoài việc loại bớt uy quyền của hai quan phụ chính, như Việt Nam sử lược đã chép, vua Hiệp Hòa còn có những hành động khác nữa, như: cử Tuy Lý vương làm đại diện để giao thiệp thẳng với Tòa Khâm sứ Pháp, tự tiện tiếp De Champeaux tại điện Văn Minh, nghe lời tâu của hai hoàng thân là Hồng Sâm và Hồng Phì định loại trừ ông Tường, ông Thuyết... Chính vì vậy, mà hai ông phụ chính này đã phải gấp rút cho phế và cho bức tử nhà vua, để rồi khi Khâm sứ De Champeaux cho rằng việc Kiến Phúc lên nối ngôi là "trái với Hòa ước Quý Mùi" thì ông Thuyết tuyên bố rằng, "hòa ước" đó hoàn toàn không có giá trị gì, bởi người đứng đầu ra nó là Hiệp Hòa đã không còn nữa!

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hiệp Hòa** là một phường thuộc thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, Việt Nam. ## Địa lý trái|nhỏ|Cầu Hiệp Hòa bắc qua sông Cái, kết nối phường Hiệp Hòa với trung tâm thành phố
**Trận Hiệp Hòa** là một trận đánh nhỏ trong chiến tranh Việt Nam. Vào đêm ngày 22 tháng 11 năm 1963, ước tính có khoảng 500 binh lính Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam
**Liên hiệp Hóa sinh và Sinh học phân tử Quốc tế** hay **Liên đoàn Quốc tế về Hóa sinh và Sinh học phân tử**, viết tắt tiếng Anh là **IUBMB** (International Union of Biochemistry and
**Hiệp Hòa** (chữ Hán: 協和; 1 tháng 11 năm 1847 – 29 tháng 11 năm 1883), húy là **Nguyễn Phúc Hồng Dật** (阮福洪佚), sau khi lên ngôi đổi thành **Nguyễn Phúc Thăng** (阮福昇), là vị
**Hiệp Hòa** là một huyện thuộc tỉnh Bắc Giang, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Hiệp Hòa nằm ở phía tây tỉnh Bắc Giang, cách thành phố Bắc Giang khoảng 30 km về phía tây, cách
**Hiệp Hòa** là một xã thuộc tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam. ## Địa lý Xã Hiệp Hòa có vị trí địa lý: *Phía đông giáp phường Tự Lạn và xã Ngọc Thiện *Phía tây giáp
**Cống Hiệp Hòa** là một công trình thủy lợi được xây dựng trên sông Lam tại xã Hòa Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. ## Xây dựng cống Hiệp Hòa Con kênh dẫn nước
**Hiệp Hòa** là một xã thuộc tỉnh Tây Ninh, Việt Nam. ## Địa lý Xã Hiệp Hòa có vị trí địa lý: *Phía đông giáp xã Hậu Nghĩa *Phía tây giáp xã Mỹ Quý và
**Đông Lỗ** là một xã thuộc huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang, Việt Nam. ## Địa lý Xã Đông Lỗ nằm ở phía nam huyện Hiệp Hòa, có vị trí địa lý: *Phía đông giáp
**Lăng Hiệp Hòa** là lăng mộ của vua Hiệp Hòa, hoàng đế thứ 6 của triều Nguyễn. Lăng nằm cách Kinh thành Huế 7 km về phía Tây Nam, tọa lạc ở khu vực đồi thông
**Cầu Hiệp Hòa** thuộc phường Hiệp Hòa, TP.Biên Hòa, Đồng Nai và nối giữa thành phố Biên Hòa với Cù lao Phố. ## Lịch sử Công trình cầu Hiệp Hòa khởi công xây dựng ngày
**Thái Sơn** là một xã thuộc huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang, Việt Nam. ## Địa lý Xã Thái Sơn có diện tích 4,56 km², dân số năm 2023 là 6.446 người, mật độ dân số
**Thanh Vân** là một xã thuộc huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang, Việt Nam. ## Địa lý Xã Thanh Vân nằm ở phía bắc huyện Hiệp Hòa, có vị trí địa lý: *Phía đông giáp
**Hùng Sơn** là một xã thuộc huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang, Việt Nam. ## Địa lý Xã Hùng Sơn nằm ở phía tây huyện Hiệp Hòa, có vị trí địa lý: *Phía đông giáp
**Mai Đình** là một xã thuộc huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang, Việt Nam. ## Địa lý Xã Mai Đình có vị trí địa lý: *Phía đông và phía nam giáp tỉnh Bắc Ninh *Phía
**Ngọc Sơn** là một xã thuộc huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang, Việt Nam. ## Địa lý Xã Ngọc Sơn nằm ở phía đông bắc huyện Hiệp Hòa, có vị trí địa lý: *Phía đông
**Hòa Sơn** là một xã thuộc huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang, Việt Nam. ## Địa lý Xã Hòa Sơn có vị trí địa lý: *Phía đông giáp xã Thái Sơn và xã Hùng Sơn
**Hương Lâm** là một xã thuộc huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang, Việt Nam. ## Địa lý Xã Hương Lâm có vị trí địa lý: *Phía đông giáp thị trấn Bắc Lý và xã Châu
**Đại Thành** là một xã cũ thuộc huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang, Việt Nam. ## Địa lý Xã Đại Thành có tổng diện tích khoảng 3 km², dân số năm 2023 là 4.947 người, mật
**Đồng Tân** là một xã thuộc huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang, Việt Nam. ## Địa lý Xã Đồng Tân có diện tích 3,74 km², dân số năm 2023 là 4.127 người, mật độ dân số
nhỏ|[[Hirohito|Thiên hoàng Chiêu Hòa]] là một giai đoạn trong lịch sử Nhật Bản tương ứng với thời gian tại vị của Thiên hoàng Chiêu Hòa, từ ngày 25 tháng 12 năm 1926 đến 7 tháng
**Đức Hòa** là một huyện nằm ở tỉnh Long An, Việt Nam. ## Địa lý ### Vị trí địa lý Huyện Đức Hòa nằm ở phía đông bắc tỉnh Long An, nằm cách thành phố
nhỏ|phải|Lễ ký kết Hiệp ước Quý Mùi tại Thuận An-Huế, ngày 25 tháng 8 năm 1883, trong đó: [[Trần Đình Túc (ngồi đầu bên trái), François Jules Harmand (thứ 3 bên trái) và Nguyễn Trọng
**Biên Hòa** là một tỉnh cũ của Việt Nam Cộng hòa. ## Địa lý Tỉnh Biên Hòa có vị trí địa lý: *Phía đông giáp tỉnh Long Khánh và tỉnh Phước Tuy *Phía tây giáp
**Hòa ước Giáp Thân 1884** hay còn có tên là **Hòa ước Patenôtre** (phiên âm: Hòa ước Pa-tơ-nốt), là hòa ước cuối cùng nhà Nguyễn ký với thực dân Pháp vào ngày 6 tháng 6
**Tuy Hòa** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Phú Yên, Việt Nam. Là đô thị trù phú nằm ở hạ nguồn Sông Ba, dòng sông lớn nhất miền Trung. Đây là trung tâm
**An Bình** là một phường thuộc thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, Việt Nam. ## Địa lý Phường An Bình là một phường nằm ngoại ô thành phố Biên Hòa, được bao bọc bởi
Mặt tiền tòa nhà hành chính của [[Viện Đại học Sài Gòn, cơ sở giáo dục đại học lớn nhất tại Việt Nam Cộng hòa, hình chụp năm 1961.]] **Nền giáo dục Việt Nam Cộng
**Cầu Hóa An** là cây cầu bắc qua sông Đồng Nai và nằm trên lộ trình của Quốc lộ 1K (Đường Nguyễn Ái Quốc) thuộc địa phận thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, Việt
**Cầu Bửu Hòa** là cây cầu bắc qua sông Đồng Nai, nối liền phường Bửu Hòa và phường Hiệp Hòa (tức cù lao Phố) thuộc thành phố Biên Hòa, Đồng Nai. Tổng chiều dài toàn
**Cầu Thống Nhất** là một cây cầu bắc qua sông Cái thuộc Dự án Đường trục Trung tâm thành phố Biên Hòa đang được triển khai thi công xây dựng, nối liền hai phường Thống
**Hiệp định Genève 1954** (tiếng Việt: **Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954**) là hiệp định đình chiến được ký kết tại thành phố Genève, Thụy Sĩ nhằm khôi phục hòa bình ở Đông Dương. Hiệp định
**Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland**, còn được biết đến với tên gọi **Vương quốc Liên hiệp Đại Anh và Bắc Ireland** hoặc **Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland** (), hay
nhỏ|phải|Châu Nam cực nhìn từ [[vệ tinh.]] **Hiệp ước Nam Cực** (tiếng Anh, **Antarctic Treaty**) và các hiệp định liên quan được gọi chung là **Hệ thống Hiệp ước Nam Cực** (gọi tắt là **ATS**),
**Hiệp ước Cấm thử vũ khí hạt nhân trong khí quyển, ngoài vũ trụ và dưới nước**, đã cấm tất cả vật nổ vũ khí hạt nhân ngoại trừ những thứ được tiến hành ngầm.
**Hiệp định đình chiến Compiègne** (, ) được ký vào ngày 11 tháng 11 năm 1918 trong một khu rừng gần thành phố Compiègne, thuộc vùng Picardy của Pháp. Hiệp định này đánh dấu sự
**Việt Nam Dân chủ Cộng hòa** (**VNDCCH**), cũng được gọi là **Bắc Việt** (), là một nhà nước ở Đông Nam Á tồn tại từ năm 1945 đến năm 1976. Là một thành viên Khối
**Hiệp định Paris về Việt Nam** (hay **hiệp định Paris 1973**, **Hiệp định Ba Lê**) là hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam do 4 bên tham chiến: Hoa
**Hiệp định sơ bộ Pháp – Việt** là một hiệp định được ký ngày 6 tháng 3 năm 1946 giữa Pháp và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hiệp định này được xem là một
nhỏ|Vụ thử bom nguyên tử 14 kiloton tại [[Nevada, Hoa Kỳ.]] **Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân** là một hiệp ước quốc tế nhằm mục đích hạn chế việc sở hữu các
Trang cuối văn bản Hiệp ước không xâm phạm Đức – Xô ngày 26 tháng 8 năm 1939 (chụp bản xuất bản công khai năm 1946) **Hiệp ước Xô – Đức**, còn được gọi là
thumb|Bản đồ thế giới các nước tham gia chiến tranh thế giới thứ nhất. Khối Hiệp ước màu xanh, [[Liên minh Trung tâm màu cam, và các nước trung lập màu xám.]] **Hội nghị Hòa
**Ủy ban Toàn quốc Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc** (), viết tắt **Chính Hiệp Toàn quốc** () hoặc **Ủy ban Toàn quốc Chính Hiệp** (), là tổ chức cấp quốc
**Hiệp ước Cấm thử nghiệm Hạt nhân Toàn diện**, viết tắt tiếng Anh: CTBT (Comprehensive Nuclear-Test-Ban Treaty) là một hiệp ước đa phương ngăn cấm tất cả các vụ nổ hạt nhân cho cả mục
nhỏ|phải|Gian hàng bán tiểu thuyết võ hiệp tại Việt Nam **Võ hiệp** () hoặc **kiếm hiệp** (劍俠) là một thể loại trong văn hóa đại chúng Hoa ngữ nói về những cuộc phiêu du của
[[File:NPT_parties.svg|liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:NPT_parties.svg|phải|nhỏ|400x400px|Tư cách tham gia Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân ]] **Danh sách các bên tham gia Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân** bao gồm các quốc gia đã
**Hiệp ước cấm vũ khí hạt nhân** là điều ước quốc tế mang tính ràng buộc pháp lý đầu tiên cấm vũ khí hạt nhân nhằm hướng tới giải trừ hạt nhân hoàn toàn. Hiệp
**Hiệp ước về việc thành lập Liên Xô** chính thức tạo ra **Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết** (thường được gọi là Liên Xô). Nó _de jure_ hợp pháp hóa một
**Hiệp ước Hải quân Washington**, còn được gọi là **Hiệp ước Năm cường quốc** là một hiệp ước được ký kết vào năm 1922 trong số các quốc gia lớn đã thắng Thế chiến thứ
**Tổ chức Hiệp ước Trung tâm** (**CENTO**), ban đầu được gọi là **Hiệp ước Baghdad** hoặc **Tổ chức Hiệp ước Trung Đông** (**METO**), là một liên minh quân sự trong thời kỳ chiến tranh Lạnh.