✨Helloween

Helloween

Helloween là ban nhạc Power metal đến từ Đức, thành lập năm 1984 bởi các thành viên của Iron Fist và Powerfool. Họ là ban nhạc tiên phong trong thể loại Power metal ở châu Âu, và album phòng thu thứ hai và thứ ba của họ: Keeper of the Seven Keys, Pt. 1 và Pt.2, được coi là kiệt tác của dòng nhạc này.

Kể từ khi thành lập, ban nhạc đã phát hành tổng cộng 14 album phòng thu, nhiều lần thay đổi về mặt nhân sự. Những cựu thành viên đó sau khi rời ban đã sáng lập khá nhiều ban nhạc khác, nổi bật như Gamma Ray, Iron Savior, Masterplan và Unisonic.

Lịch sử hoạt động

Walls of Jericho (1984-1986)

Helloween thành lập năm 1984 ở Hamburg, Đức. Ban đầu, đội hình của ban nhạc gồm:

  • Kai Hansen - Hát chính, guitar.
  • Michael Weikath - Guitar.
  • Markus Grosskopf - Bass.
  • Ingo Schwichtenberg - Trống. Cũng vào thời gian này, ban nhạc ký hợp đồng với hãng Noise Records, thu hai ca khúc và được hãng Noise biên tập, gọi là Death Metal. 2 ca khúc đó là "Oernst of Life" của Weikath và "Metal Invaders" của Hansen, ca khúc sau này xuất hiện trong album phòng thu đầu tiên của ban nhạc. Helloween thu và phát hành Helloween, EP cùng tên đầu tiên vào năm 1985, gồm 5 ca khúc. Cũng vào năm này, ban nhạc phát hành album phòng thu đầu tiên, Walls of Jericho. Trong chuyến lưu diễn sau đó, Kai cảm thấy khó khăn trong việc đảm nhận một lúc hai vai trò hát chính và guitar. EP Judas, EP cuối cùng mà Kai đứng trong đội hình của Helloween với vai trò hát chính được phát hành vào năm 1986. EP bao gồm ca khúc "Judas" và hai ca khúc hát live khác. Sau đó, Helloween bắt đầu tìm kiếm một vocal mới.

Keeper of the Seven Keys, Parts I & II (1986-1989)

Michael Kiske, một vocal còn khá trẻ (18 tuổi) đã gia nhập Helloween, từ một ban nhạc cũng đến từ Hamburg, Ill Prophecy. Với vocal mới trong đội hình, Helloween đề nghị hãng Noise phát hành một album đôi, tuy nhiên đề nghị này của ban nhạc đã không được hãng chấp thuận. Thay vào đó, họ phát hành từng album đơn: Keeper of the Seven Keys Part I, vào năm 1987 và album Keeper of the Seven Keys Part II một năm sau đó. Single "I Want Out" được phát liên tục trên MTV và show "Headbanger's Ball". Helloween cũng xuất hiện trong buổi khai mạc Headbanger's Ball Tour ở Khu vực vịnh San Francisco, cùng với Exodus và Anthrax. Ban nhạc gặt hái được nhiều thành công trên toàn thế giới.

Trong khi tour diễn Keeper of the Seven Keys Part II chưa kết thúc, guitarist Kai Hansen rời ban nhạc, chủ yếu do sự xung đột trong nội bộ ban nhạc, một số vấn đề với hãng Noise và sự bất mãn trên tour diễn. Không lâu sau, guitarist của nhóm Rampage, Roland Grapow thay thế vị trí để ngỏ của Hansen. Grapow đã hoàn tất phần còn lại của tour diễn với ban nhạc.

Pink Bubbles Go ApeChameleon (1989-1993)

Năm 1989, Helloween phát hành album live Live in the U.K.(Keepers Live Ở Nhật Bản và I Want Out Live ở Hoa Kỳ), được trích từ chuyến lưu diễn ở châu Âu. Những thành viên còn lại lại gặp phải vấn đề với hãng Noise, sau đó đã phá vỡ hợp đồng với hãng này. Thời gian này đã xuất hiện một số tin đồn về việc ban nhạc tan rã. Cho đến năm 1991, ban nhạc mới phát hành album mới, Pink Bubbles Go Ape cùng với hãng thu âm mới, EMI. So với các album trước, album này ít mạnh mẽ hơn. Bên cạnh đó, một số ca khúc như "Heavy Metal Hamsters", "I'm Doing Fine, Crazy Man", và "Shit and Lobster", cho thấy một sự chuyển hướng của ban nhạc: nhấn mạnh vào sự hài hước hơn là những bản anh hùng ca như những album trước. Kết quả, album thất bại về mặt thương mại, và bị phê bình về mặt chuyên môn. Xung đột dần hình thành giữa các thành viên. Hai năm sau, album phòng thu thứ năm của Helloween, Chameleon. Thay vì chọn thể loại nhạc mạnh mẽ hơn, ban nhạc sử dụng một số chất liệu còn lạ lẫm với người nghe như tù và, acoustic guitars, nhạc đồng quê,... Cũng như album trước, Chameleon thất bại cả về mặt doanh thu lẫn phê bình. Ngày 23 tháng 10 năm 2007, Helloween phát hành album phòng thu thứ 12, Gambling with the Devil. Album nhận được nhiều lời phê bình tích cực. Nhiều fan cho rằng đây là một trong những album thành công nhất của Helloween từ năm 1994. Album này cũng đánh dấu sự xuất hiện của keyboards trong single đầu tiên "As Long as I Fall". Sau đó, Helloween hợp tác với Gamma Ray, cùng thực hiện tour lưu diễn "Hellish Rock", bắt đầu vào tháng 11 năm 2007. Tour diễn đi qua châu Âu, châu Á, Nam Mỹ và một vài ngày ở Mỹ. Tour diễn đáng chú nhất với việc Kai Hansen cùng 2 thành viên đầu tiên của Helloween là Weikath và Grosskopf chơi ca khúc "I Want Out" và "Future World" lần cuối cùng.

Unarmed - Best of 25th Anniversary (2009)

Vào ngày 26 tháng 12 năm 2009, Helloween phát hành album Unarmed – Best of 25th Anniversary ở Nhật Bản và phát hành ngày 1 tháng 2 năm 2010 ở châu Âu. Album là tuyển tập 10 bài hát hay nhất của ban nhạc, được thu âm lại với những phong cách khác với bản gốc. Vào ngày 14 tháng 5 năm 2010, ban nhạc tuyên bố trên website của họ rằng họ đang tiến hành thu âm album phòng thu thứ 13.

7 Sinners (2010-2011)

Helloween phát hành album phòng thu thứ 13, 7 Sinners, vào ngày 31 tháng 10 năm 2010 ở châu Âu và ngày 3 tháng 11 ở Mỹ. Trước khi phát hành đĩa nhạc, người hâm mộ đã có thể thưởng thức album này trên trang Myspace của nhóm. Cái tên 7 sinners ám chỉ 7 tội lỗi chết người, mà theo Andi Deris "chúng ta cần một cái gì đó để mọi người biết đây là một album metal". Chuyến lưu diễn quảng bá album của Helloween cùng với khách mời Stratovarius và Pink Cream 69 . Vào tháng 5 năm 2011, thông qua website của ban nhạc, Helloween thông báo rằng 7 Sinners 'Giải Vàng' ở Cộng hòa Séc

Straight out of hell (2012-2013)

Tháng 6 năm 2012, Helloween bắt đầu thực hiện album phòng thu thứ 14 của họ. Andi Deris đã post một video về việc ra album mới "chúng tôi hy vọng đây sẽ tiếp tục là một kiệt tác nữa, chúng tôi thích nó". Người hâm mộ có thể xem video trên ở trang [http://www.youtube.com/watch?v=WXjCSHYp_sw&feature=plcp Youtube - Helloween at the studio 2012] Vào ngày 13 tháng 9 năm 2012, trên trang chủ của Helloween [http://helloween.org], ban nhạc đã xác nhận album mới của họ, 'Straight out of hell', sẽ phát hành vào 18 tháng 1 năm 2013. Một số thông tin về những show diễn đầu tiên trong năm 2013 cũng được thông báo ở đây..

Ngày 21 tháng 1 năm 2013, album phòng thu thứ 14 của Helloween: Straight Out Of Hell chính thức được phát hành trên toàn thế giới. Trước đó, vào ngày 16 tháng 12, ban nhạc đã đăng lên trang mạng Youtube MV chính thức của bài hát Nabataea, track 01 trong album của họ. Tuy nhiên video này đã bị leak khoảng 1 tuần trước khi MV chính thức được đăng tải với chất lượng kém hơn rất nhiều.

Đúng với sự mong đợi của người hâm mộ, đây là một album mà theo như lời Weikath: " These songs will kick even the laziest listener's ass ". Theo thông tin được đăng tải trên trang chủ của ban nhạc [http://helloween.org], Straight Out Of Hell đã đạt được những vị trí "chưa từng có" trên các bảng xếp hạng . Theo đó, album đạt #4 ở Đức, #2 ở BXH album quốc tế ở Nhật Bản, #6 ở Thụy Điển, #4 ở Phần Lan và Séc, #10 ở Hungary và lọt vào BXH Billboard ở vị trí #97.

Thành viên

;Thành viên hiện tại

  • Michael Weikath – lead & rhythm guitar, backing vocals (1984–nay)
  • Markus Grosskopf – bass, backing vocals (1984–nay)
  • Andi Deris – lead vocals (1993–nay)
  • Sascha Gerstner – rhythm & lead guitar, backing vocals (2002–nay)
  • Daniel Löble – drums (2005–nay)

;Additional musicians

  • Matthias Ulmer – keyboards (2007–nay)
  • Eddy Wrapiprou – keyboards (2010-nay)

;Thành viên cũ

  • Kai Hansen – rhythm & lead guitar (1984–1989), lead vocals (1984–1986), backing vocals (1986–1989)
  • Ingo Schwichtenberg – drums (1984–1993)
  • Michael Kiske – lead vocals (1986–1993)
  • Roland Grapow – rhythm & lead guitar, backing vocals (1989–2001)
  • Uli Kusch – drums (1993–2001)
  • Mark Cross – drums (2001–2003)
  • Stefan Schwarzmann – drums (2003–2005)

;Timeline

ImageSize = width:1000 height:350 PlotArea = left:120 bottom:80 top:0 right:10 Alignbars = justify DateFormat = dd/mm/yyyy Period = from:01/01/1984 till:01/01/2013 TimeAxis = orientation:horizontal format:yyyy

Colors = id:Vocals value:red legend:Hát chính id:Guitars value:blue legend:Guitars id:VocGuit value:purple legend:Guitars, hát chính id:Bass value:green legend:Bass id:Drums value:orange legend:Trống

Legend = orientation:horizontal position:bottom

ScaleMajor = increment:2 start:1984 ScaleMinor = unit:year increment:1 start:1984

LineData = at:01/03/1985 color:black layer:back at:01/12/1985 color:black layer:back at:01/05/1987 color:black layer:back at:01/09/1988 color:black layer:back at:01/04/1989 color:yellow layer:back at:01/03/1991 color:black layer:back at:01/06/1993 color:black layer:back at:01/01/1994 color:black layer:back at:01/03/1996 color:black layer:back at:30/06/1996 color:yellow layer:back at:24/04/1998 color:black layer:back at:09/11/1999 color:black layer:back at:06/12/2000 color:black layer:back at:20/05/2003 color:black layer:back at:31/10/2005 color:black layer:back at:26/02/2007 color:yellow layer:back at:23/10/2007 color:black layer:back at:29/01/2010 color:black layer:back at:31/10/2010 color:black layer:back

BarData =

bar:han text:"Kai Hansen" bar:kiske text:"Michael Kiske" bar:deris text:"Andi Deris" bar:wei text:"Michael Weikath" bar:grap text:"Roland Grapow" bar:gers text:"Sascha Gerstner" bar:gross text:"Markus Grosskopf" bar:schwich text:"Ingo Schwichtenberg" bar:kusch text:"Uli Kusch" bar:cross text:"Mark Cross" bar:schwarzmann text:"Stefan Schwarzmann" bar:lobl text:"Daniel Löble"

PlotData=

width:10 textcolor:black align:left anchor:from shift:(10,-4) bar:han from:01/01/1986 till:01/01/1989 color:Guitars bar:han from:01/01/1984 till:01/01/1986 color:VocGuit bar:kiske from:01/01/1986 till:01/01/1993 color:Vocals bar:deris from:01/01/1993 till:end color:Vocals bar:wei from:01/01/1984 till:end color:Guitars bar:grap from:01/01/1989 till:01/01/2001 color:Guitars bar:gers from:01/01/2002 till:end color:Guitars bar:gross from:01/01/1984 till:end color:Bass bar:schwich from:01/01/1984 till:01/01/1993 color:Drums bar:kusch from:01/01/1993 till:01/01/2001 color:Drums bar:cross from:01/05/2001 till:20/05/2003 color:Drums bar:schwarzmann from:20/05/2003 till:01/01/2005 color:Drums bar:lobl from:02/01/2005 till:end color:Drums

ImageSize = width:800 height:90 PlotArea = left:110 bottom:60 top:6 right:6 Alignbars = justify DateFormat = dd/mm/yyyy Period = from:01/01/1984 till:30/10/2009 TimeAxis = orientation:horizontal format:yyyy

Colors= id:Lines value:black legend:Albums phòng thu id:Lines2 value:yellow legend:Albums live

Legend = orientation:horizontal position:top

Discography

Walls of Jericho (1985) Keeper of the Seven Keys, Pt. 1 (1987) Keeper of the Seven Keys, Pt. 2 (1988) Pink Bubbles Go Ape (1991) Chameleon (1993) Master of the Rings (1994) The Time of the Oath (1996) Better Than Raw (1998) Metal Jukebox (1999) The Dark Ride (2000) Rabbit Don't Come Easy (2003) Keeper of the Seven Keys: The Legacy (2005) Gambling with the Devil (2007) Unarmed – Best of 25th Anniversary (2010) 7 Sinners (2010) Straight Out of Hell (2013) *My God-Given Right (2015)

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Helloween** là ban nhạc Power metal đến từ Đức, thành lập năm 1984 bởi các thành viên của Iron Fist và Powerfool. Họ là ban nhạc tiên phong trong thể loại Power metal ở châu
**_Master of the Rings_** là album phòng thu thứ sáu của ban nhạc power metal đến từ Đức Helloween, phát hành năm 1994, với sự tham gia của 2 thành viên mới là Andi Deris
**_Keeper of the Seven Keys Part 2_** là album phòng thu thứ ba của ban nhạc power metal đến từ Đức Helloween, phát hành năm 1988. Album phát hành sau sự thành công của album
**_Keeper of the Seven Keys Part I_** là album phòng thu thứ hai của ban nhạc power metal/heavy metal đến từ Đức Helloween, phát hành năm 1987. Đây là album đánh dấu sự xuất hiện
**_The Time of the Oath_** là album phòng thu thứ 7 của ban nhạc power metal đến từ Đức Helloween, phát hành năm 1996. Album này được dành cho tay trống cũ của ban nhạc,
**Power metal** là một tiểu thể loại của heavy metal kết hợp các đặc điểm của heavy metal truyền thống với speed metal, thường nằm trong nền nhạc giao hưởng. Nói chung, power metal có
"**Electric Eye**" là bài hát thứ hai của ban nhạc heavy metal người Anh Judas Priest trích từ album _Screaming for Vengeance_ (1982). Ca khúc đã trở thành tiết mục then chốt tại các buổi
**Udo Dirkschneider** (sinh ngày 6 tháng 4 năm 1952) là một ca sĩ người Đức. Ông lần đầu nổi tiếng nhờ tham gia ban nhạc heavy metal Accept. Sau khi rời ban nhạc vào năm
**Lễ hội Pol'and'Rock**, trước đây được gọi là **Lễ hội Woodstock Ba Lan** (tiếng Ba Lan: _Przystanek Woodstock_; "Trạm xe Woodstock"; trong tài liệu tiếng Anh, người ta thường gọi nó là _Lễ hội Woodstock
**Rock** là một thể loại âm nhạc quần chúng được bắt nguồn từ cách gọi ngắn gọn của cụm từ "rock and roll" vào những năm 1950 ở Mỹ, rồi sau đó phát triển thành
**_City of Evil_** là album phòng thu thứ ba của ban nhạc heavy metal người Mỹ Avenged Sevenfold, được phát hành vào ngày 6 tháng 6 năm 2005 thông qua các hãng đĩa Warner Bros.
**Avenged Sevenfold** (viết tắt là **A7X**) là một ban nhạc heavy metal người Mỹ đến từ Huntington Beach, California, được thành lập vào năm 1999. Đội hình ban nhạc hiện tại gồm giọng ca M.
Avantasia - Rockin' field festival 2008 (Idroscalo, Milan) **Avantasia** (The Metal Opera) là một dự án Symphonic/Power Metal được sáng lập bởi Tobias Sammet, giọng hát chính của ban nhạc Edguy. Tên của dự án
**Accept** là một ban nhạc heavy metal người Đức xuất thân từ Solingen, do tay guitar Wolf Hoffmann cùng hai cựu thành viên Udo Dirkschneider (hát) và Peter Baltes (bass) thành lập vào năm 1976.

**Gamma Ray** là một ban nhạc Power Metal kỳ cựu của nước Đức. Nhóm được ra đời nhờ công sức thủ lĩnh Kai Hansen (cựu ca sĩ/ nhạc công của Helloween). Năm 1990, họ
**Matthew Charles Sanders** (sinh ngày 31 tháng 7 năm 1981), nổi bật với nghệ danh **M. Shadows**, là một ca sĩ và nhạc sĩ sáng tác bài hát người Mỹ. Anh là giọng ca chính