✨Giỗ

Giỗ

Giỗ là một buổi lễ, nghi thức theo phong tục tập quán nhằm tưởng nhớ đến những người đã qua đời. Ý nghĩa của giỗ là để nhắc nhở con cháu về những người đã đi trước; gắn kết tình cảm của các thành viên trong cùng một gia đình, dòng họ, đôi khi trong cùng nghề.

Ý nghĩa

nhỏ|Bàn thờ tưởng nhớ tổ tiên (Jesa) của người Hàn Quốc Cúng giỗ là một buổi lễ kỷ niệm ngày người mất qua đời quan trọng của người Việt, được tính theo Âm lịch (Người Công giáo Việt Nam thường cúng giỗ theo Dương lịch). Ngày này là ngày để thể hiện tấm lòng thủy chung, thương xót của người đang sống với người đã khuất, thể hiện đạo hiếu đối với Tổ tiên. Nhà giàu thì tổ chức làm giỗ linh đình, mời người thân trong dòng họ, bạn bè gần xa, anh em bằng hữu về dự giỗ. Nhà nghèo thì chỉ cần lưng cơm, đĩa muối, quả trứng, ba nén nhang, một đôi nến và vài món ăn giản dị cúng người mất cũng đã có lòng Thành kính đối với người đã mất. Lòng thủy chung, thương xót người đã khuất chỉ phụ thuộc vào việc con cháu phải nhớ ngày người mất để làm giỗ, không liên quan đến việc làm giỗ lớn hay nhỏ.

Thân bằng, cố hữu của những người quá cố nếu thấy lưu luyến thì đến dự giỗ theo ngày đã định sẵn từ trước, không cần phải đợi đến thiệp mời như tiệc cưới, lễ mừng, không nên có chuyện hữu thỉnh hữu lai, vô thỉnh bất đáo (有請有来, 无请不到), nghĩa là có mời thì đến, không mời không đến.

Cách khấn trong cúng giỗ

Theo sách "Thọ Mai Gia Lễ" (tác giả là Hồ Sỹ Tân (1690-1760) hiệu Thọ Mai người làng Hoàn Hậu, huyện Quỳnh Lưu, đậu Tiến sĩ năm 1721 (năm thứ 2 triều Bảo Thái), làm quan đến Hàn lâm Thị chế) việc cúng giỗ chỉ thực hiện trong 5 đời theo phép "Ngũ đại đồng đường", đến đời thứ 6 người chịu trách nhiệm cúng giỗ sẽ mang "thần chủ" của cụ 6 đời đem đi chôn mà không thờ cũng nữa gọi là "ngũ đại mai thần chủ". Tất cả các "thần chủ" đều được sửa lại nâng lên 1 đời tính từ người chịu trách nhiệm cúng giỗ, còn về phần cụ 6 đời sẽ rước vào nhà thờ họ để khấn chung với cộng đồng Gia Tiên trong những dịp Xuân Tế hay Chạp Tổ. *Thủy Tổ dòng họ thì cụ ông gọi là Hiển Thủy Tổ Khảo còn cụ bà gọi là Hiển Thủy Tổ Tỷ* Từ đời thứ 2 kể từ sau Thủy Tổ đến trước Ngũ Đại tính trực tiếp từ bản thân người chịu trách nhiệm cúng giỗ Nếu là đàn ông đã chết thì chỉ khấn gộp chung là Hiển Cao Tằng Tổ Khảo Nếu là đàn bà đã chết thì chỉ khấn gộp chung là Hiển Cao Tằng Tổ Tỷ *Ngũ Đại tính trực tiếp từ bản thân người chịu trách nhiệm cúng giỗ Nếu kị ông đã chết thì phải khấn là Hiển Cao Tổ Khảo Nếu kị bà đã chết thì phải khấn là Hiển Cao Tổ Tỷ Nếu kị bác nội (anh kị nội) đã chết thì phải khấn là Hiển Cao Tổ Bá Khảo, còn kị bà bác nội (chị dâu kị nội) đã chết thì phải khấn là Hiển Cao Tổ Bá Tỷ, cũng như thế mà là kị chú nội (em kị nội) hoặc kị thím (em dâu kị nội) thì sửa chữ thành chữ Thúc. Trường hợp kị cô ruột (chị hay em gái kị nội) thì bỏ các chữ Bá, Thúc đi mà thay vào đó bằng chữ , các trường hợp trên nếu chết non khi chưa đến "tuổi vị thành niên" đều phải thêm chữ Mãnh đằng trước chữ Cao mà bỏ chữ Hiển và chữ Khảo* đi. Tứ Đại tính trực tiếp từ bản thân người chịu trách nhiệm cúng giỗ Nếu cụ ông đã chết thì phải khấn là Hiển Tằng Tổ Khảo Nếu cụ bà đã chết thì phải khấn là Hiển Tằng Tổ Tỷ Nếu cụ bác nội (anh cụ nội) đã chết thì phải khấn là Hiển Tằng Tổ Bá Khảo, còn cụ bà bác nội (chị dâu cụ nội) đã chết thì phải khấn là Hiển Tằng Tổ Bá Tỷ, cũng như thế mà là cụ chú nội (em cụ nội) hoặc cụ thím (em dâu cụ nội) thì sửa chữ thành chữ Thúc. Trường hợp cụ cô ruột (chị hay em gái cụ nội) thì bỏ các chữ Bá, Thúc đi mà thay vào đó bằng chữ , các trường hợp trên nếu chết non khi chưa đến "tuổi vị thành niên" đều phải thêm chữ Mãnh đằng trước chữ Tằng mà bỏ chữ Hiển và chữ Khảo đi. Tam Đại tính trực tiếp từ bản thân người chịu trách nhiệm cúng giỗ Nếu ông nội đã chết thì phải khấn là Hiển Tổ Khảo Nếu bà nội đã chết thì phải khấn là Hiển Tổ Tỷ Nếu ông ngoại (trường hợp bên mẹ không còn người thừa tự) đã chết thì phải khấn là Hiển Ngoại Tổ Khảo Nếu bà ngoại (trường hợp bên mẹ không còn người thừa tự) đã chết thì phải khấn là Hiển Ngoại Tổ Tỷ Nếu ông bác nội (anh ông nội) đã chết thì phải khấn là Hiển Tổ Bá Khảo, còn bà bác nội (chị dâu ông nội) đã chết thì phải khấn là Hiển Tổ Bá Tỷ, cũng như thế mà là ông chú nội (em ông nội) hoặc bà thím (em dâu ông nội) thì sửa chữ thành chữ Thúc. Trường hợp bà cô ruột (chị hay em gái ông nội) thì bỏ các chữ Bá, Thúc đi mà thay vào đó bằng chữ , các trường hợp trên nếu chết non khi chưa đến "tuổi vị thành niên" đều phải thêm chữ Mãnh đằng trước chữ Tổ mà bỏ chữ Hiển và chữ Khảo đi. Nhị Đại tính trực tiếp từ bản thân người chịu trách nhiệm cúng giỗ Nếu cha đẻ đã chết thì phải khấn là Hiển Khảo Nếu mẹ đẻ đã chết thì phải khấn là Hiển Tỷ Nếu cha vợ (trường hợp bên vợ không còn người thừa tự) đã chết thì phải khấn là Hiển Nhạc Phụ Nếu mẹ vợ (trường hợp bên vợ không còn người thừa tự) đã chết thì phải khấn là Hiển Nhạc Mẫu Nếu bác ruột (anh bố) đã chết thì phải khấn là Hiển Bá Khảo, còn bác dâu (chị dâu bố) đã chết thì phải khấn là Hiển Bá Tỷ, cũng như thế mà là chú ruột (em bố) hoặc thím (em dâu bố) thì sửa chữ thành chữ Thúc. Trường hợp cô ruột (chị hoặc em gái bố) thì bỏ các chữ Bá, Thúc đi mà thay chữ vào vị trí đó, các trường hợp trên nếu chết non khi chưa đến "tuổi vị thành niên" đều phải thêm chữ Mãnh đằng trước mà bỏ chữ Hiển và chữ Khảo đi. Nếu cậu ruột (anh hoặc em trai mẹ) đã chết (trường hợp bên mẹ không còn người thừa tự) thì phải khấn là Hiển Cữu Phụ, vợ của cậu thay chữ Phụ ra chữ Mẫu. Nếu là chị mẹ thì để nguyên chữ Hiển mà thay 2 chữ sau là Bá Mẫu, còn em gái mẹ thì đổi chữ thành chữ Di, chồng bá hoặc chồng gì thì đổi chữ Mẫu thành chữ Phụ là xong, tất cả những người chết trẻ khi chưa thành niên thì đảo chữ Hiển sang chữ Mãnh. *Nhất Đại tính trực tiếp từ bản thân người chịu trách nhiệm cúng giỗ Nếu anh trai đã chết thì phải khấn là Bào Huynh, trường hợp anh cùng bố khác mẹ gọi là: Thân Huynh, trường hợp anh cùng mẹ khác bố gọi là Thệ Huynh, trường hợp người anh đó chết non khi còn ở "tuổi vị thành niên" thì thêm chữ Mãnh vào trước chữ Huynh. Tương tự nếu người quá cố là em trai thì thay chữ Huynh bằng chữ Đệ, nếu là chị gái đổi thành chữ Tỷ và em gái thì sửa là chữ Muội. Còn trường hợp chị dâu (nếu chưa có con với anh mà ở vậy không tái giá) thì thay chữ Huynh bằng chữ Tẩu và em dâu thì đổi gọi thành Đệ Phụ. Nếu anh con bác ruột đã chết (trường hợp bên đó vô thừa tự) thì phải khấn là Tụng Huynh, trường hợp người anh đó chết non khi còn ở "tuổi vị thành niên" thì thêm chữ Mãnh vào trước chữ Huynh, nếu là chị gái con bác ruột thì đổi chữ Huynh thành chữ Tỷ. Tương tự nếu người quá cố là em trai con chú ruột thì thay chữ Huynh bằng chữ Đệ, cũng như vậy mà là em gái thì sửa thành chữ Muội. Còn trường hợp chị dâu (nếu chưa có con với anh con bác ruột mà ở vậy không tái giá) thì thay chữ Huynh bằng chữ Tẩu và em dâu thì đổi gọi thành Đệ Phụ. Nếu vợ chết trước thì chồng sẽ khấn là Hiền Thê, ngược lại vợ sẽ khấn chồng là Lương Phu* Nghịch Cảnh Nếu con trai không may chết trước cha mẹ khi đã đến tuổi thành niên mà chưa có gia đình (trong trường hợp các em còn nhỏ) thì gọi là Yểu Tử, tương tự con gái là Yểu Nữ. :Ghi chú: Tất cả những trường hợp chết chưa đến tuổi thành niên (nữ dưới 13 tuổi, nam dưới 16 tuổi) không có cúng giỗ riêng mà đều khấn chung là Thương Vong Tòng Tự.

Những hoạt động chính

Sau khi cúng giỗ, gia đình thường dọn thức ăn vừa cúng xong để cùng ăn, coi như hưởng lộc của tiền nhân. Bạn bè thân thuộc cũng được mời đến dùng bữa, tức là đi ăn giỗ. Một biến thể của việc cúng giỗ là tục thờ "hậu" do nhà chùa hay đình làng đảm nhiệm. Trong trường hợp này người quá cố đã cúng tiền hay ruộng vào chùa hay đình để được hưởng lễ vật vào những ngày kỵ nhật. Trước khi hạ xuống, chủ nhà phải vái 3 vái ngắn (gọi là Lễ Tạ). Phải làm như vậy để tạ ơn gia tiên đã về thừa hưởng những lễ mà con cháu đã dâng lên.

Dịp này là để con cháu trong dòng họ tề tựu lại để cùng ăn giỗ, thăm hỏi tình hình lẫn nhau. Ngày Cát kỵ thường chỉ mời khách nằm gọn trong gia đình, dòng tộc đến ăn giỗ (diện mời không rộng như Tiểu Tường và Đại Tường).

Gia chủ khăn áo chỉnh tề, bước vào khấn Tổ tiên. Khách đến dự giỗ thì đặt đồ lễ lên bàn thờ, cùng gia chủ vái 4 lạy 3 vái. Sau khi gia chủ, khách khứa, bạn bè thân hữu khấn lễ xong xuôi thì đợi hết ba tuần hương thì gia chủ đứng trước bàn thờ để lễ tạ bằng ba vái ngắn rồi lấy đồ vàng mã đem đi đốt. Cuối cùng, gia chủ bày bàn để mời khách khứa ăn giỗ, để cùng ôn lại những kỷ niệm về người đã khuất đồng thời thăm hỏi về công việc lẫn nhau. Sau khi ăn giỗ xong, gia chủ hạ tất cả lễ vật trên bàn thờ, chia đều mỗi túi một hay nhiều thứ cho từng gia đình - thân khách gọi là lộc của Tổ tiên, bao gồm: hoa quả, bánh kẹo...

Những ngày quan trọng trong cúng giỗ

Trong thờ cúng tổ tiên, có 3 ngày giỗ: Giỗ Đầu, Giỗ Hết, Giỗ Thường.

Giỗ Đầu

Ý nghĩa

Giỗ Đầu gọi là Tiểu Tường (chữ Hán: 小祥), là ngày giỗ đầu tiên sau ngày người mất đúng một năm, nằm trong thời kỳ tang, là một ngày giỗ vẫn còn bi ai, sầu thảm. Thời gian một năm vẫn chưa đủ để làm khuây khỏa những nỗi đau buồn, xót xa tủi hận trong lòng của những người thân. Trong ngày Giỗ Đầu, người ta thường tổ chức trang nghiêm không kém gì so với ngày để tang năm trước, con cháu vẫn mặc đồ tang phục. Lúc tế lễ và khấn Gia tiên, những người thân thiết của người quá cỗ cũng khóc giống như ngày đưa tang ở năm trước. Nhà có điều kiện thì có thể thuê cả đội kèn trống nữa.

Sắm lễ

Vào ngày Giỗ Đầu, ngoài mâm lễ mặn và hoa, quả, hương, phẩm oản... thì người ta thường mua sắm rất nhiều đồ hàng mã không chỉ là tiền, vàng, mã làm bằng giấy mà còn cả các vật dụng như quần, áo, nhà cửa, xe cộ và một hình nhân. Hình nhân ở đây không có nghĩa là thế mạng cho người thật (người còn sống) mà là do nhân dân tin rằng, với phép thuật của thầy phù thủy thì hình nhân này sẽ hóa thành một người thật, xuống dưới Âm giới để hầu hạ vong linh người mất. Gia chủ sẽ đem những đồ lễ này lên bàn thờ để cúng. Cúng xong thì đem ra ngoài mộ để đốt.

Những đồ vàng mã trong ngày Tiểu Tường được gọi là mã biếu, vì khi những đồ lễ này được gửi từ cõi Dương gian xuống dưới cõi Âm ty thì người quá cố và Gia tiên không được dùng, mà phải đem những đồ lễ này đi biếu các Ác thần để tránh sự quấy nhiễu.

Sau khi lễ Tạ và hóa vàng xong, gia chủ bầy cỗ bàn mời họ hàng, khách khứa ăn giỗ. Khách đến ăn giỗ ăn mặc trang nghiêm, vẫn còn một sự bi ai, sầu thảm như ngày để tang năm trước.

Sau lễ này, người ta sẽ sửa sang lại mộ cho người quá cố, thi hài vẫn nằm dưới huyệt hung táng.

Giỗ Hết

Ý nghĩa

Giỗ Hết gọi là Đại Tường (chữ Hán: 大祥), là ngày giỗ sau ngày người mất hai năm, vẫn nằm trong thời kỳ tang. Thời gian hai năm cũng vẫn chưa đủ để hàn gắn những vết thương trong lòng những người còn sống. Trong lễ này, người ta vẫn tổ chức trang nghiêm. Lúc tế lễ người được giỗ và Gia tiên, con cháu vẫn mặc đồ tang phục và vẫn khóc giống như Giỗ Đầu và ngày đưa tang, vẫn bi ai sầu thảm chẳng kém gì Giỗ Đầu. Nhà có điều kiện thì có thể thuê cả đội kèn trống nữa.

Sắm lễ

Vào ngày Giỗ Hết, ngoài mâm lễ mặn và hoa, quả, hương, phẩm oản... thì người ta thường mua sắm rất nhiều đồ hàng mã không chỉ là tiền, vàng, mã làm bằng giấy mà còn cả các vật dụng như quần, áo, nhà cửa, xe cộ giống như trong ngày Giỗ Đầu. Vàng mã được đốt cho người quá cố cũng nhiều hơn ngày Giỗ Đầu.

Những đồ vàng mã trong ngày Đại Tường được gọi là mã biếu, vì khi những đồ lễ này được gửi từ cõi Dương gian xuống dưới cõi Âm ty thì người quá cố và Gia tiên không được dùng, mà phải đem những đồ lễ này đi biếu các Ác thần để tránh sự quấy nhiễu.

Sau khi lễ Tạ và hóa vàng xong, gia chủ bầy cỗ bàn mời họ hàng, khách khứa ăn giỗ. Diện mời đến ăn giỗ dịp này thường đông hơn lễ Tiểu Tường, cỗ bàn cũng làm linh đình và công phu hơn. Khách đến ăn giỗ vẫn mặc đồ tang phục, vẫn còn một sự bi ai, sầu thảm như ngày để tang hai năm trước và Tiểu Tường.

Sau ngày lễ này hết hai tháng, đến tháng thứ ba người ta sẽ chọn ngày tốt để Trừ phục (còn gọi là Đàm tế) tức có nghĩa là Bỏ tang, người thân sẽ đốt hết những áo quần tang, gậy chống. Sau đó, người đang sống sẽ trở lại cuộc sống thường nhật, có thể tổ chức hay tham gia các cuộc vui, đình đám và người vợ mới có thể đi bước nữa (nếu chồng mình mất). Đây là một buổi lễ vô cùng quan trọng, vì nó là một bước ngoặt đối với người đang sống và vong linh của người đã mất.

Giỗ Thường

Ý nghĩa

Giỗ Thường còn gọi là ngày Cát Kỵ (chữ Hán: 吉忌), là ngày giỗ sau ngày người mất từ ba năm trở đi. Cát kỵ nghĩa là Giỗ lành. Trong lễ giỗ này, con cháu chỉ mặc đồ thường phục, không khóc như ngày đưa ma nữa, không còn cảnh bi ai, sầu thảm, là dịp để con cháu người quá cố sum họp để tưởng nhớ người đã khuất và diện mời khách không còn rộng rãi như hai lễ Tiểu Tường và Đại Tường.

Ngày giỗ thường được duy trì đến hết năm đời. Đến sau năm đời, vong linh người quá cố được siêu thoát, đầu thai hóa kiếp trở lại nên không cần thiết phải cúng giỗ nữa mà nạp chung vào kỳ xuân tế. Nhưng quan trọng hơn là con cháu còn nhớ đến tổ tiên và người đã khuất, thể hiện lòng thành kính. Cúng giỗ không nhất thiết phải quá đắt đỏ, linh đình hay quá cầu kỳ, nhà nghèo chỉ cần có đĩa muối, bát cơm úp, quả trứng luộc thì cũng đã giữ được đạo hiếu với tổ tiên.

Sắm lễ

Trong lễ giỗ này, người ta thường làm cỗ bàn bình thường, có thể lớn hay nhỏ tùy từng gia đình. Người ta cũng đốt nhiều vàng mã cho người cõi âm có cái dùng như ngày Tiểu Tường và Đại Tường.

Sau khi lễ Tạ và hóa vàng xong, gia chủ bầy cỗ bàn mời họ hàng, khách khứa ăn giỗ, cùng thăm hỏi lẫn nhau và ôn lại những kỷ niệm của người đã khuất. Diện này chỉ thường mời khách gọn trong phạm vi họ hàng (không rộng như hai giỗ trước). Ngày này, khách đến ăn giỗ không còn quá đau buồn như hai lễ Tiểu Tường và Đại Tường trước, có thể mặc trang phục bình thường.

Ngày Tiên Thường và Chính Kỵ

Trong việc cúng vào ngày Giỗ thì bao gồm gồm 2 lễ quan trọng: Lễ Tiên thường (先嘗 lễ cúng vào ngày trước ngày người chết qua đời 1 ngày), Lễ Chính kỵ (正忌 chính ngày mất).

Ngày Cáo Giỗ

Ngày Cáo Giỗ còn được gọi là Tiên Thường là ngày giỗ trước ngày người quá cố qua đời. Trong ngày này, con cháu cúng cáo giỗ để mời người đã khuất hôm sau về hưởng giỗ, xin phép Thổ công cho phép vong hồn người được giỗ và nội ngoại cùng về hưởng giỗ cùng con cháu. Ngày cúng cáo giỗ chỉ được áp dụng đối với giỗ trọng (tức những người hàng trên hoặc ngang hàng trưởng gia như kỵ, cụ, ông, bà, cha, mẹ, chồng, vợ, anh, chị, em...) mà không cần thiết phải áp dụng đối với giỗ mọn (tức những người hàng dưới trưởng gia như con, cháu, chắt, chít...) mà chỉ cúng ngày chính giỗ. Vào ngày này, trưởng gia mang lễ ra mộ mời vong hồn về, sửa sang lại mộ phần cho ngay ngắn.

Ngày này, bàn thờ được dọn dẹp, lau chùi sạch sẽ từ sáng sớm để chuẩn bị cho việc cúng lễ Tiên Thường vào buổi chiều. Họ hàng nội ngoại thường gửi giỗ và sửa soạn để làm giỗ hôm sau. Lúc đầu sẽ cúng gia tiên và con cháu sẽ ăn uống với nhau. Phải cúng Công thần Thổ Địa trước, Gia Tiên sau. Bàn thờ lúc nào cũng hương khói nghi ngút cho đến hết lễ Chính Kỵ vào buổi sáng hôm sau.

Khi cúng, Gia chủ cần phải cúng để mời người được hưởng giỗ trước, tiếp theo mới đến mời Gia tiên nội/ngoại từ bậc cao nhất đến thấp nhất và cáo thỉnh Gia thần cùng về đây để dự tiệc Giỗ.

Ngày Chính Giỗ

Ngày Chính Giỗ còn được gọi là Chính Kỵ là ngày mất của người được giỗ. Điều bắt buộc trong cỗ cúng là phải có bát cơm úp và một quả trứng luộc kèm gia vị (ngày nay không bắt buộc).

Gia chủ có thể mời khách khứa trong làng xóm, trong họ đến dự. Khách khi đến đều mang theo trà, cam, rượu... đến lễ giỗ. Khi khách đến thì đón đồ lễ đưa lên bàn thờ. Sau đó chủ nhà mời khách uống trà, ăn trầu hay bánh kẹo... Cỗ bàn được sắp thành từng mâm đặt trên chiếc cũi tầm, mỗi mâm có bốn hoặc sáu người ngồi ăn. Thành phần mâm cỗ gồm vài món ăn tinh khiết, thơm ngon mà chủ nhà đã chuẩn bị cùng với nước uống, bát đũa...

Những người cùng lứa tuổi, ngôi vị được ngồi vào một mâm. Đàn ông và đàn bà không nên ngồi chung. Cỗ hay được làm vào buổi trưa có khi còn được lai rai đến buổi chiều. Sau khi khách ra về hết chủ nhà lên bàn thờ thắp thêm một tuần hương, lễ tạ xin hóa vàng.

Có gia đình thường mời cả hai lễ Tiên Thường và Chính Kỵ, đôi khi lễ tiên thường đông hơn vì vào buổi chiều, khi làm xong việc thì tới nhà hàng xóm ăn giỗ tiện hơn. Có những gia đình cả hai vợ chồng được mời đến dự cả hai lễ, một người đi ăn lễ Tiên Thường và một người đi ăn lễ Chính Kỵ. Dần dần, người ta đã giản lược đi, chỉ mời khách đến dự trong một lễ nhưng vẫn cúng vàng hương, rượu trong cả hai lễ. Theo phong tục, lễ tiên thường phải cũng buổi chiều, lễ chính kỵ phải cúng buổi sáng kể cả khi đến chiều hoặc tối hôm đó mới mất.

Gửi giỗ

Người quá cố có rất nhiều con cháu, chỉ cúng giỗ tại nhà con trai trưởng, nếu con trai trưởng mất thì làm tại nhà cháu đích tôn. Con cháu sẽ tề tựu ở nhà con trai trưởng làm giỗ. Nếu người được giỗ là hàng cao thì con cái, cháu chắt đến nhà trưởng tộc. Lễ gửi giỗ trọng hay mọn, lớn hay nhỏ thì tùy thuộc theo hoàn cảnh và mối quan hệ với người chết của từng gia đình. Con cháu sẽ là những người đóng góp nhiều nhất. Để giảm bớt gánh nặng chi phí cho trưởng chi hay trưởng họ, con cháu hay gửi giỗ bằng tiền, đồ lễ vật có giá trị khác như: vài cân hoa quả, vàng hương hoặc có thể chỉ là thẻ hương. Cũng có thể gửi giỗ theo sở thích của người mất mà gửi. Những người sống ở xa không có khả năng về dự giỗ thì cúng vọng mời vong hồn về hưởng giỗ, gửi đồ lễ cho trưởng họ. Những đồ lễ được gửi đến được trưởng tộc đem lên bàn thờ cúng hết. Khi ăn giỗ xong, con cháu được chia lộc của ông bà tổ tiên.

Làng xã cổ truyền trước năm 1945 còn có ruộng hương hỏa để góp phần lợi nhuận cho người làm giỗ.

Tổ nghề

Là một người có công lớn đối với một nghề nào đó hoặc giúp phát triển hoặc sáng tạo ra nghề đó. Do đó được các thế hệ sau tôn trọng và suy tôn là làm người sáng lập vì đã có công tạo ra nghề, gọi là Thánh Sư. Thánh Sư chỉ là những con người bình thường, nhưng lại được người đời sau tôn thờ vì đã có công sáng tạo ra nghề, truyền lại cho các thế hệ sau.

Thí dụ

  • Giỗ tổ Hùng Vương: ca ngợi công đức của các vua Hùng, người đã có công dựng nên nước Việt theo truyền thuyết
  • Giỗ tổ nghề (Thánh Sư): ca ngơi công đức và phẩm hạnh của các tổ nghề. Thứ Sáu Tuần Thánh: tưởng niệm cuộc Thương khó và cái chết của Chúa Giêsu Kitô Ngày Phật nhập Niết-bàn
👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Giỗ** là một buổi lễ, nghi thức theo phong tục tập quán nhằm tưởng nhớ đến những người đã qua đời. Ý nghĩa của giỗ là để nhắc nhở con cháu về những người đã
nhỏ|[[Anh đào trong gió]] **Gió** hay **phong** (Chữ Hán: 風, Tiếng Anh: _wind_) là những luồng không khí chuyển động trên quy mô lớn. Trên bề mặt của Trái Đất, gió bao gồm một khối
nhỏ|300x300px|Các múi giờ chính trên đại lục Úc Nước Úc chia thành ba múi giờ riêng biệt: **Giờ chuẩn Tây Úc** (**AWST**; UTC+08:00), **Giờ chuẩn Trung úc** (**ACST**; UTC+09:30), và **Giờ chuẩn Đông Úc **(**AEST**;
[[Turbine gió tại Tây Ban Nha]] **Năng lượng gió** là động năng của không khí di chuyển trong bầu khí quyển Trái Đất. Sử dụng năng lượng gió là một trong các cách lấy năng
phải|Một khoanh giò lụa cắt 6 miếng đều nhau và bày hình sao trên đĩa **Giò lụa**, **chả giò** hay **chả lụa** (Từ dùng nhiều trong miền Nam) là tên gọi của món ăn được
**Giò** là món ăn sử dụng nguyên liệu chính là thịt (gia súc, gia cầm) giã nhuyễn, phối trộn với một số nguyên liệu khác, được gói chặt và thường được làm chín bằng cách
Bản đồ các múi giờ Hoa Kỳ với những vùng thời gian [[CST và EST mới được biểu thị]] Đây là một danh sách các tiểu bang Hoa Kỳ theo múi giờ. Để biết thêm
nhỏ|240x240px| Máy đo gió thường được sử dụng để đo tốc độ gió. **Tốc độ gió,** hay gió vận tốc dòng chảy, là một thành phần cơ bản trong khí quyển lượng do không khí
thumb|Một thiết bị xử lý không khí được sử dụng để làm nóng hoặc làm mát không khí ở khu trung tâm. **Thông gió** (chữ V trong HVAC, hệ thống điều hòa không khí) là
Theo luật, **giờ ở New Zealand** được chia thành hai múi giờ chuẩn. Các hòn đảo chính sử dụng giờ chuẩn New Zealand (tiếng Anh: New Zealand Standard Time (NZST)), 12 tiếng trước Giờ Phối
Máy đo gió trên nóc Deconism Gallery. **Máy đo gió** (tiếng Anh: _anemometer_, bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp là "_anemos_" có nghĩa là _gió_), Hán Việt: **Phong tốc kế** 風速計, là một thiết bị
**Gió Mặt Trời** là một luồng hạt điện tích giải phóng từ vùng thượng quyển của Mặt Trời. Khi gió này được phát ra từ những ngôi sao khác với Mặt Trời của chúng ta
Chênh lệch giờ trên các vùng của Trái Đất trong 1 [[ngày]] Các múi giờ (chú thích bằng [[tiếng Anh)]] Một **múi giờ** là 1 vùng trên Trái Đất mà người ta quy ước sử
__NOTOC__ **Múi giờ miền Trung** là giờ tính bằng cách lấy Giờ phối hợp quốc tế (UTC) trừ đi 6 tiếng. Múi giờ này dựa theo Thời gian Mặt trời trung bình của kinh tuyến
Giờ chuẩn Thái Bình Dương là [[UTC-8 được tô màu đỏ.]] **Múi giờ Thái Bình Dương** là giờ tính bằng cách lấy Giờ phối hợp quốc tế (UTC) trừ đi 8 tiếng. Múi giờ này
nhỏ|phải| **Múi giờ miền núi** của Bắc Mỹ là giờ tính bằng cách lấy Giờ phối hợp quốc tế (UTC) trừ đi 7 tiếng vào thời kỳ ban ngày ngắn nhất của mùa thu và
nhỏ|phải| **Múi giờ miền Đông** (**ET**) của Tây Bán Cầu rơi vào phần lớn các vùng dọc theo duyên hải phía đông của Bắc Mỹ và duyên hải phía tây của Nam Mỹ. Múi giờ
Bãi turbine gió Middelgrunden, 2009 Một bãi turbine gió tại bang [[Mecklenburg-Vorpommern, Đức]] Một bãi turbine nhỏ tại [[Höflein, Áo]] Một cột turbine tại [[Baden-Württemberg, Đức]] **Turbine gió** là máy dùng để biến đổi động
nhỏ|Chong chóng gió này đang thể hiện một cơn gió đông. **Hướng gió** được gọi theo hướng mà nó bắt nguồn. Ví dụ, một cơn gió _bắc_ thổi từ phía bắc xuống phía nam. Hướng
nhỏ|300x300px| Gió biển di chuyển trên mặt nước (hướng về phía người xem) ở [[Hobart, Tasmania, Úc ]] nhỏ|250x250px| Hồ - gió biển và độ sâu khí quyển|liên_kết=Special:FilePath/LAKE_BREEZE.gif **Gió biển** là bất kỳ cơn gió
thumb|Đồng hồ sáu giờ tại [[Cung điện Quirinal, Roma]] **Đồng hồ sáu giờ** hay **đồng hồ 6 giờ** (tiếng Anh: _six-hour clock_) là một quy ước thời gian mà 24 giờ trong một ngày được
thumb|right|Chùm mây Cirrus với tinh thể băng thể hiện gió đứt mức cao, cùng với sự thay đổi tốc độ và hướng gió **Gió đứt** () là một sự khác biệt về tốc độ và
thumb|Đám mây Levant hình thành đi ngang qua các vách đá phía đông của [[núi Gibraltar.]] **Gió levant** là một cơn gió đông thổi ở Tây Địa Trung Hải và miền Nam nước Pháp, một
Hoạt hình 24 giờ [[Xoáy thuận Xynthia đi ngang qua Pháp]] thumb|Mô hình khái niệm cho một cơn bão gió châu Âu và các dấu chân gió mạnh liên quan. Lưu ý rằng tuyến đường
**Giờ ở Trung Quốc** tuân theo thời gian bù tiêu chuẩn duy nhất là UTC+08:00 (tám giờ trước Giờ phối hợp quốc tế), mặc dù Trung Quốc trải qua năm múi giờ địa lý. Thời
phải|nhỏ|Hiện tượng thời tiết trên Trái Đất do tác dụng tương hỗ của ba loại hoàn lưu lớn mà sản sinh. **Gió mùa Tây Nam** (chữ Anh: _southwest monsoon_) là gió mùa mùa hè thịnh
thumb|Một con tàu đang chống chịu gió cấp 12 trên biển **Thang sức gió Beaufort** hay đơn giản là **cấp gió** là thang đo kinh nghiệm về sức gió, chủ yếu dựa trên trạng thái
[[Tập tin:DST Countries Map.png|upright=1.5|thumb |alt=World map. Europe, most of North America, parts of southern South America and southeastern Australia, and a few other places use DST. Most of equatorial Africa and a few other places
nhỏ|300x300px|**Giờ ở [[Indonesia:**]] **Indonesia được chia thành 3 múi giờ** khác nhau do nước này trải rộng từ Tây sang Đông. *Giờ miền Tây Indonesia (tiếng Indonesia: _Waktu Indonesia Barat_ - WIB) — UTC+07:00; *Giờ
nhỏ|Cối xay gió ở [[La Mancha, Tây Ban Nha]] nhỏ|[[Cối xay gió tại Kinderdijk, Di sản UNESCO]] **Cối xay gió** là một loại máy chạy bằng sức gió. Máy này được thiết kế để biến
thumb|Turbine điện gió ở Bạc Liêu **Điện gió ở Việt Nam** thuộc nhóm công nghiệp năng lượng mới nổi, được nhập cuộc theo sự phát triển nguồn năng lượng tái tạo chung của thế giới,
**Giờ ở Thổ Nhĩ Kỳ** sử dụng múi giờ UTC+03:00, hay còn được gọi là **Giờ Thổ Nhĩ Kỳ** (**TRT**) (Tiếng Thổ Nhĩ Kì: Türkiye Saati). Múi giờ này cũng được sử dụng cho Giờ
Mùa thứ hai của chương trình **_Chị đẹp đạp gió rẽ sóng_** với tên gọi **_Chị đẹp đạp gió 2024_** được phát sóng trên kênh truyền hình VTV3 từ ngày 26 tháng 10 năm 2024
**Định dạng ngày và giờ ở Hoa Kỳ** khác với định dạng được sử dụng ở hầu hết các quốc gia khác. Định dạng này được thừa hưởng từ một phần lịch sử của Vương
Giờ chính thức hiện hành của Việt Nam được quy định trong quyết đinh số 134/2002/QĐ-TTg ngày 14 tháng 10 năm 2002 của Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt
**Giờ làm việc** ở đây là khoảng thời gian mà một người phải đi làm theo hợp đồng để được trả lương. Lao động không được trả lương như làm việc nhà hoặc chăm sóc
**Cối xay gió tại Kinderdijk** là một hệ thống gồm 19 cối xay gió hoành tráng nằm tại khu vực đất lấn biển Alblasserwaard, thuộc tỉnh Zuid-Holland, Hà Lan. Hầu hết chúng là một phần
phải|Gió Mistral thổi ở [[Marseille gần lâu đài Château d'If]] phải|Hình ảnh mô tả điều kiện khí hậu gây nên gió Mistral. **Gió Mistral** (_mistrau_ theo tiếng Provençal, _mistral_ theo tiếng của vùng Languedocien, _mestral_
Hợp lưu của sông Lò Rèn và sông Vàm Sát trong rừng Cần Giờ, nhìn phía xa hướng Đông có thể thấy Núi Lớn của thành phố [[Thành phố Hồ Chí Minh|Hồ Chí Minh]] Rừng
**Dầu gió** là một chất lỏng dạng tinh dầu, sử dụng như thuốc xoa dùng ngoài cơ thể, một số loại dầu gió nhẹ có thể pha loãng với nhiều nước ấm để uống. Dầu
**Giờ Mùa hè Đông Âu** (**EEST**) là tên gọi của múi giờ UTC+3, trước giờ UTC 3 tiếng. Giờ này được sử dụng vào mùa hè ở một số quốc gia châu Âu, Bắc Phi,
**Giờ tiêu chuẩn Hàn Quốc** hay **Giờ tiêu chuẩn Triều Tiên** ( - **KST**; ) là múi giờ chuẩn tại Hàn Quốc và là múi giờ thứ chín tính từ UTC (UTC+9:00), có nghĩa là
nhỏ|300x300px|Trang trại gió Gansu tại Trung Quốc là trang trại gió lớn nhất thế giới, với công suất mục tiêu là 20.000 MW vào năm 2020. nhỏ|300x300px| Trang trại gió Shepherds Flat là một trang
**Gió mùa Đông Bắc** hay còn gọi là **gió bấc** hay **gió Đông Bắc** hoặc **gió mùa mùa đông** là một thuật ngữ để chỉ một khối khí lạnh có nguồn gốc từ trung tâm
**Giờ Viễn đông châu Âu** (, viết tắt là **FET**) hoặc **Giờ Đông Âu** là múi giờ được xác định là ba giờ trước UTC (UTC+03:00) mà không có thời gian tiết kiệm ánh sáng
thế=Sao xung Vela (giữa) và tinh vân gió sao xung ở xung quanh nó.|nhỏ|[[Sao xung Vela (giữa) và tinh vân gió sao xung ở xung quanh nó.]] **Tinh vân gió sao xung** (đôi khi còn
Thái Lan sử dụng múi giờ UTC+07:00, đi trước UTC 7 giờ. Giờ địa phương ở Bangkok ban đầu là UTC+06:42:04. Thái Lan sử dụng giờ địa phương này cho đến năm 1920, khi nó
phải|Gió Tây ôn đới (mũi tên màu xanh) và gió mậu dịch (mũi tên màu vàng) **Gió mậu dịch** hay **gió tín phong** (tiếng Anh: _trade wind_ hay _passat_, bắt nguồn từ _passar_
**_Cuốn theo chiều gió_** (Nguyên văn: **_Gone with the wind_**), xuất bản lần đầu năm 1936, là một cuốn tiểu thuyết tình cảm của Margaret Mitchell, người đã giành giải Pulitzer với tác phẩm này
**Giờ chuẩn Greenwich** (viết tắt từ tiếng Anh **Greenwich Mean Time**, thường gọi tắt là **GMT** nghĩa là "Giờ Trung bình tại Greenwich") là giờ Mặt Trời tại Đài thiên văn Hoàng Gia Greenwich tại