Giáp cốt văn () hay chữ giáp cốt là một loại văn tự cổ đại của Trung Quốc thời nhà Thương, chữ giáp cốt được gọi theo một tên gọi khác là chữ tượng hình cổ Trung Hoa.
Sơ lược
Giáp cốt văn chỉ hệ thống chữ viết tương đối hoàn chỉnh, được phát triển và sử dụng vào cuối đời Thương (thế kỷ 14-11 TCN), dùng để ghi chép lại nội dung chiêm bốc của Hoàng thất lên trên yếm rùa hoặc xương thú. Sau khi lật đổ nhà Thương, nhà Chu vẫn tiếp tục sử dụng thể chữ này. Cho đến nay, đây được xem là thể chữ cổ xưa nhất và là nguồn gốc hình thành chữ Hán hiện đại.
Giáp cốt văn có nghĩa là chữ viết (văn) được khắc trên yếm rùa (giáp) và xương thú (cốt). Giáp cốt văn được phát hiện tại khu vực làng Tiểu Đốn, huyện An Dương, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Xác định niên đại cách đây khoảng 3000 năm, được chia làm hai loại là giáp văn và cốt văn. Giáp văn được khắc trên yếm của rùa, một số ít được khắc trên mai, cốt văn được khắc trên xương trâu.
Năm Quang Tự thứ 24 triều nhà Thanh (năm 1898), một số nông dân phát hiện ra những mảnh xương thú khắc văn tự, nhưng tưởng là "long cốt" có thể chữa bệnh nên đã bán cho các hiệu thuốc. Nhà kim thạch học Vương Ý Vinh (王懿荣) và học trò là Triệu Quân (赵军) vô tình phát hiện ra trên những "Long cốt" đó là một loại văn tự cổ. Qua khảo sát phát hiện ra nơi có "Long cốt" chính là kinh đô cũ của nhà Ân, tức Ân Khư (殷墟). Ban đầu các học giả không hề biết điều này, bởi vì các nhà buôn cố ý nói dối nơi tìm được "Long cốt".
Hiện tại người ta khai quật được khoảng hơn 15 vạn mảnh xương như thế, có khoảng hơn 5.000 chữ, đã đọc được khoảng 1.500 chữ. Trung Quốc đã treo thưởng 15.000 USD cho bất kỳ 1 chữ nào được giải nghĩa (ví dụ nếu ai giải nghĩa được 10 chữ thì sẽ được thưởng 150.000 USD).
Chữ giáp cốt sử dụng các phương pháp tượng hình, chỉ sự, hội ý để cấu tạo chữ. Về mặt dụng tự pháp ta cũng bắt gặp phương pháp giả tá. Nội dung giáp cốt văn chủ yếu nói về thiên văn, khí tượng, địa lý, tôn giáo... phục vụ nhu cầu tâm linh của vua chúa quý tộc. Vì thế mà giáp cốt văn còn được gọi là chiêm bốc văn tự, chiêm bốc nghĩa là bói toán.
Tên gọi
Ngoài tên gọi phổ biến là "Giáp cốt văn", nó còn được gọi bằng nhiều tên khác:
- "Khế văn"( 契文), "Ân khế"(殷契) xuất phát từ việc dùng dao để khắc nét.
- "Giáp cốt bốc tự"(甲骨卜辞), "Trinh bốc văn tự"(贞卜文字) xuất phát từ nội dung ghi chép là về việc chiêm bốc.
- "Quy giáp thú cốt văn'(龟甲兽骨文), "Quy giáp văn tự"(龟甲文字), "Quy bản văn"(龟版文) xuất phát từ vật liệu ghi chép là yếm rùa và xương thú.
Ngày 25-12-1921, nhà sử học Trung Quốc Lục Mậu Đức(陆懋德) ở Bắc Kinh phát biểu trong "Thần Báo Phụ Khan" bài "Sự phát hiện và giá trị của Giáp cốt văn" lần đầu sử dụng tên gọi Giáp cốt văn. Từ đó, nhiều nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục sử dụng tên gọi này, và dần dần trở nên phổ biến trong giới nghiên cứu và nhân dân.
Về mặt cấu tạo, một số chữ tương hình mang tính khắc họa đặc trưng của vật thực, chưa thống nhất về số nét, cách viết, bố cục chữ.
Các chữ tượng ý của giáp cốt văn chỉ yêu cầu sự tổ hợp của các thành phần để tạo nên hàm ý của chữ, chưa chú ý sắp xếp. Do đó, chữ dị thể của giáp cốt văn rất nhiều, có chữ có hơn 10 cách viết.
Vì chữ giáp cốt chú trọng miêu tả vật thật, do đó kích thước chữ không thống nhất. Chữ dài, ngắn khác nhau, một số chữ có thể to bằng vài chữ.
Cách tạo chữ bao gồm tượng hình, tượng sự, hội ý, hình thanh, chuyển chú, giả tá,... mang dáng dấp của cách tạo chữ "lục thư" chữ Hán, cho thấy sự thành thục và mức phát triển cao của loại chữ viết này.
Cách khắc chữ dù chưa thống nhất, nhưng cũng có tính thống nhất nhất định. Chữ hoặc được khắc từ trên xuống, hoặc từ dưới lên, từ trái qua, từ phải lại, thường nét ngang trước nét dọc.
Do khắc bằng dao, nên các nét mảnh và thẳng. Lại do vật liệu (xương cứng, mềm), dụng cụ (dao cùn, bén) mà nét chữ khắc lên thô mảnh không đồng nhất. Độ dài ngắn nét không nhất định. Có chữ ngoằn ngoèo, bắt chéo, lại có chữ phân bố tầng lớp một cách trang trọng, thể hiện sự sáng tạo phong phú và cảm hứng thẩm mỹ của người xưa.
Mặc dù vậy, giáp cốt văn vẫn giữ được sự đối xứng và bố cục tương đối ổn định. Do đó có người cho rằng thư pháp Trung Quốc bắt đầu từ chữ giáp cốt, vì nó đã mang 3 đặc tính của thư pháp: dụng bút, kết tự, chương pháp.
Quá trình khai quật
Năm Quang Tự thứ 25 (1899) giáp cốt văn bắt đầu được các nhà kim thạch học cất giữ. Từ năm 1928 đến năm 1937 Sở nghiên cứu lịch sử và ngôn ngữ thuộc viện Nghiên cứu Trung ương Trung Quốc đã khai quật được khoảng 25.000 mảnh xương ở Ân Khư. Năm 1937 tại An Dương, Hà Nam, Trung Quốc đã có khoảng hơn 4.000 mảnh xương được khai quật. Từ năm 1954, viện Nghiên cứu Trung ương cũng tìm được khoảng 300 mảnh xương tại Sơn Tây, Bắc Kinh, di chỉ Chu Nguyên.
Tình trạng bảo tồn
Hiện đã khai quật được khoảng 154.000 mảnh xương, trong đó Trung Quốc đại lục giữ hơn 100.000, Đài Loan hơn 30.000, Hồng Kông hơn 100, 12 quốc gia khác như Nhật Bản, Anh, Thụy Điển... giữ khoảng 27.000 mảnh nữa.
Một số ví dụ
Tập tin:CMOC Treasures of Ancient China exhibit - oracle bone inscription.jpg|Một cái bảng với chữ giáp cốt (bảng đó còn chưa xong) với thầy bói yêu cầu nhà vua Thương nếu có một điều hơn 10 ngày
Tập tin:Shang dynasty inscribed tortoise plastron.jpg|Một yếm rùa với thầy bói bản khắc từ thời cai trị vua Vũ Đinh
Tập tin:OracleDivining.jpg|Giáp cốt văn từ một thầy bói
Tập tin:OracleSun.jpg|Giáp cốt văn có câu hỏi về mùa mưa bởi thầy bói: _Kim nhật, Kỳ vũ_? (Hôm nay, nó có mưa không?)
Tập tin:Obi-rain.png|Giáp cốt văn có câu hỏi về mùa mưa (được chú giải)
Tập tin:OracleSpring.jpg|Giáp cốt văn cho mùa xuân
Tập tin:OracleAutumn.jpg|Giáp cốt văn cho mùa thu
Tập tin:OracleWinter.jpg|Giáp cốt văn cho mùa đông
Tập tin:Chinese character Shang oracle 豕 shi3 swine.svg|Chữ "豕" (thỉ: lợn)
Tập tin:Chinese character Shang oracle 犬 quan3 dog.svg|Chữ 犬 (khuyển: chó)
File:Shang numerals.jpg|Chữ số giáp cốt văn thời nhà Thương (thế kỷ 14 TCN).
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Giáp cốt văn** () hay **chữ giáp cốt** là một loại văn tự cổ đại của Trung Quốc thời nhà Thương, chữ giáp cốt được gọi theo một tên gọi khác là chữ tượng hình
**Giáp cốt** () hay **xương bói toán/ tiên tri** là những mẩu xương vai rùa và mai rùa, được sử dụng để bói toán bằng lửa pyromancy (hỏa bốc) - một hình thức bói toán
nhỏ|phải|Kiến trúc kiểu Trung Hoa. nhỏ|phải|Ẩm thực kiểu Trung Hoa. nhỏ|phải|Hán phục (áo [[Sườn xám).]] **Văn hóa Trung Quốc** (chữ Hán giản thể: 中华文化; chữ Hán phồn thể: 中華文化; Hán-Việt:Trung Hoa văn hoá;pinyin: Zhōnghuá wénhuà)
Tự Nguyên Hán Tự - Những Câu Chuyện Về Chữ Hán Trong Tiếng Nhật Tự nguyên là khởi nguyên và quá trình diễn biến của Hán tự từ giáp cốt văn, kim văn, tiểu triện,
**Thái Giáp** (chữ Hán: 太甲, trị vì: 1754 TCN – 1721 TCN) (cũng gọi là **Tổ Giáp**), tên thật **Tử Chí** (太丁), là vị vua thứ tư của nhà Thương trong lịch sử Trung Quốc.
**Kim văn** (金文) hay còn gọi là **minh văn** (銘文) hay **chung đỉnh văn** (钟鼎文), là loại văn tự được khắc hoặc đúc trên đồ đồng, là sự kế thừa của giáp cốt văn, xuất
**Ốc Giáp** (chữ Hán: 沃甲, trị vì: 1490 TCN - 1466 TCN), tên thật **Tử Du** (子逾), là vua thứ 15 nhà Thương trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Ốc Giáp là con
**Tổ Giáp** (chữ Hán: 祖甲, trị vì: 1258 TCN – 1226 TCN), tên thật **Tử Tải** là vua thứ 24 nhà Thương trong lịch sử Trung Quốc. Ông có tên khác là Đế Giáp (帝甲)
**Dương Giáp** (chữ Hán: 陽甲, trị vì: 1408 TCN - 1402 TCN), tên thật **Tử Hòa** (子和) là vua thứ 18 nhà Thương trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Dương Giáp là con
**Hà Đản Giáp** (chữ Hán: 河亶甲, trị vì: 1534 TCN – 1526 TCN), tên thật **Tử Chỉnh** (子整), là vị vua thứ 12 của nhà Thương trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Hà
**Tiểu Giáp** (chữ Hán: 小甲, trị vì: 1666 TCN-1650 TCN), tên thật **Tử Cao** (子高), là vua thứ bảy nhà Thương trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Tiểu Giáp là em của Thái
**Bộ Cốt**, bộ thứ 188 có nghĩa là **"xương"** là 1 trong 8 bộ có 10 nét trong số 214 bộ thủ Khang Hy. Trong Từ điển Khang Hy có 185 chữ (trong số hơn
border|right **Văn hóa Nhị Lý Đầu** () là tên gọi được các nhà khảo cổ học đặt cho một xã hội đô thị đầu thời đại đồ đồng có niên đại xấp xỉ từ 1900
thumb|[[Bản đồ Đôn Hoàng từ thời nhà Đường (vùng Cực Bắc). Bản đồ này được cho là có từ thời Đường Trung Tông (705–710). Được thành lập ở Đôn Hoàng, Cam Túc. Các chòm sao
**Đào văn** (tiếng Trung: 陶文 hoặc 陶纹, bính âm: táo wén) hay còn gọi là **đào phù** (陶符) là một loại chữ Hán Trung Quốc cổ, được khắc trên gốm (đào có nghĩa là gốm,
**Bộ Văn**, bộ thứ 67 có nghĩa là **"văn vẻ"** là 1 trong 34 bộ có 4 nét trong số 214 bộ thủ Khang Hy. Trong Từ điển Khang Hy có 26 chữ (trong số
**Đại Mạch Địa** (), là di chỉ có 3.172 nham họa, với 8.453 hình khắc riêng lẻ trên vách đá. Các học giả cho rằng nó có thể là đại diện cho hệ thống chữ
**Lớp thiết giáp hạm _Colorado**_ là một lớp bốn chiếc thiết giáp hạm thế hệ dreadnought được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Tuy nhiên, chỉ có ba
**_Ise_** (), là chiếc dẫn đầu của lớp _Ise_ gồm hai chiếc thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, từng tham gia hoạt động tại mặt trận Thái Bình Dương trong Thế
**Lớp thiết giáp hạm** **_Bismarck_** là một lớp thiết giáp hạm của Hải quân Đức Quốc Xã (_Kriegsmarine_) được chế tạo không lâu trước khi Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ. Lớp này
nhỏ|289x289px|_Khuê Văn Các_ - biểu tượng của Thủ đô [[Hà Nội. Đây là nơi học sinh thường hay chụp ảnh trong những lễ tốt nghiệp]]**Văn Miếu – Quốc Tử Giám** là quần thể di tích
nhỏ|HMS Dreadnought **Thiết giáp hạm** ()là một loại tàu chiến lớn được bọc thép dày với dàn hỏa lực chính bao gồm pháo có cỡ nòng rất lớn (trên 300mm). Thiết giáp hạm là loại
phải|Thiết giáp hạm [[USS Texas (1892)|USS _Texas_, chế tạo năm 1892, là thiết giáp hạm đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ. Ảnh màu Photochrom được chụp vào khoảng năm 1898.]] phải|[[HMS Ocean (1898)|HMS _Ocean_,
**_Kongō_** (tiếng Nhật: 金剛, Kim Cương) là chiếc tàu chiến-tuần dương đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc kiểu siêu-Dreadnought, là chiếc dẫn đầu của lớp Kongō bao gồm những chiếc _Hiei_,
**Hình tượng con hổ** hay **Chúa sơn lâm** đã xuất hiện từ lâu đời và gắn bó với lịch sử của loài người. Trong nhiều nền văn hóa khác nhau thế giới, hình ảnh con
nhỏ|phải|Tượng con Tê giác trước [[Bảo tàng d'Orsay của Henri Alfred Jacquemart, trong lịch sử chúng từng được xem như loài thần thú trị thủy]] nhỏ|phải|Họa phẩm tê giác của Johann Dietrich Findorff **Hình tượng
**_Bismarck_** là một thiết giáp hạm của Hải quân Đức, là chiếc dẫn đầu trong lớp cùng tên, được đặt theo tên vị Thủ tướng nổi tiếng trong thế kỷ 19: Otto von Bismarck, người
**Văn hóa Đông Sơn** là một nền văn hóa cổ đã xuất hiện vào khoảng năm 800 Trước Công Nguyên, từng tồn tại ở một số tỉnh miền Bắc Việt Nam và Bắc Trung bộ
**Lớp thiết giáp hạm _New York**_ là một lớp thiết giáp hạm thế hệ dreadnought của Hải quân Hoa Kỳ; là loạt hai chiếc thứ năm được thiết kế, và đã phục vụ trong cả
**Trận chiến cuối cùng của thiết giáp hạm _Bismarck**_ diễn ra vào ngày 26-27 tháng 5 năm 1941 tại vùng biển Đại Tây Dương, cách khu vực Brest của Pháp khoảng về phía tây, giữa
Hà Huy Giáp **Hà Huy Giáp** (1908–1995) là nhà hoạt động cách mạng Việt Nam, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa II (dự khuyết), khóa III, Phó Ban
**Lớp thiết giáp hạm _Colossus**_ bao gồm hai chiếc thiết giáp hạm _Colossus_ và _Hercules_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, nằm trong số những thiết giáp hạm thế hệ dreadnought đầu tiên tiếp
**Đồng Văn** là một huyện miền núi cũ thuộc tỉnh Hà Giang, đồng thời là huyện cực bắc của Việt Nam. ## Địa lý nhỏ|292x292px|[[Đèo Mã Pí Lèng nối hai huyện Mèo Vạc và Đồng
nhỏ|phải|Khải thư của Liễu Công Quyền đời [[nhà Đường|Đường)]] **Thư pháp Trung Hoa** là phép viết chữ của người Trung Hoa được nâng lên thành một nghệ thuật và có ảnh hưởng sâu sắc đến
**Lớp thiết giáp hạm _Bellerophon**_ là một lớp bao gồm ba thiết giáp hạm dreadnought được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất và đã phục vụ
nhỏ|phải|Nội và ngoại thất đền thờ Hoàng giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị **Phạm Văn Nghị** (chữ Hán: _范文誼_, 1805-1884) hiệu **Nghĩa Trai**; là một nhà giáo, nhà thơ và là một viên quan nhà
**Lớp thiết giáp hạm _North Carolina**_ là một lớp bao gồm hai thiết giáp hạm, _North Carolina_ và _Washington_, được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ vào cuối thập niên 1930 và đầu thập
Bệnh **suy giáp trạng bẩm sinh** là bệnh nội tiết khi tuyến giáp trạng của trẻ sơ sinh không sản xuất đủ hormone để đáp ứng nhu cầu chuyển hoá và quá trình sinh trưởng
**Lớp thiết giáp hạm _Scharnhorst**_ là những tàu chiến chủ lực đầu tiên, thuật ngữ dùng để chỉ tàu chiến-tuần dương hay thiết giáp hạm, được chế tạo cho Hải quân Đức (_Kriegsmarine_) sau Chiến
**Lớp thiết giáp hạm _Richelieu**_ là những thiết giáp hạm lớn nhất cũng là cuối cùng của Hải quân Pháp. Có nguồn gốc từ lớp thiết giáp hạm _Dunkerque_, lớp tàu này dự định trang
**Hình tượng con ngựa** hiện diện từ sớm trong văn hóa Đông-Tây, con ngựa là một trong những loài vật được con người thuần hóa và sử dụng trong đời sống hàng ngày và loài
nhỏ|354x354px|Thiết giáp hạm _[[Vittorio Veneto (thiết giáp hạm Ý)|Vittorio Veneto_ và _Littorio_ của Hải quân Hoàng gia Ý trong một buổi tập trận ở Địa Trung Hải, năm 1940.]] Bắt đầu từ những năm 1890,
**Bộ Tư lệnh Tăng Thiết giáp** là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Binh chủng Tăng-Thiết giáp Quân đội nhân dân Việt Nam, có nhiệm vụ tham mưu, đề xuất cho Quân uỷ Trung
**_Hiei_** (tiếng Nhật: 比叡) là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Kongō_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, được đặt tên theo đỉnh núi Hiei ở phía Đông Bắc Kyoto. Trước năm 1940, nó
**Trường Đại học Sĩ quan Tăng - Thiết giáp (TGH)** (hay _Trường Sĩ quan Tăng - Thiết giáp_) trực thuộc Bộ Tư lệnh Tăng - Thiết giáp của Bộ Quốc phòng, là trường đào tạo
**Lớp thiết giáp hạm _Courbet**_ là những thiết giáp hạm dreadnought đầu tiên được chế tạo cho Hải quân Pháp trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất, bao gồm bốn chiếc: _Courbet_, _France_, _Jean Bart_
**Lớp thiết giáp hạm _Bayern**_ là một lớp bao gồm bốn thiết giáp hạm "siêu-dreadnought" được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Lớp này bao gồm các
**_Gneisenau_** là một tàu chiến lớp _Scharnhorst_ thường được xem là một thiết giáp hạm hạng nhẹ hay một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Đức (Kriegsmarine) hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ
**Cột cờ Lũng Cú** là một cột cờ quốc gia nằm ở đỉnh Lũng Cú hay còn gọi là đỉnh núi Rồng (Long Sơn) có độ cao khoảng 1.470 m so với mực nước biển,
**Lớp thiết giáp hạm _Deutschland**_ là một nhóm bao gồm năm thiết giáp hạm tiền-dreadnought được chế tạo cho Hải quân Đức. Lớp bao gồm các chiếc SMS _Deutschland_, SMS _Hannover_, SMS _Pommern_, SMS _Schlesien_