✨Giao hưởng số 5 (Beethoven)

Giao hưởng số 5 (Beethoven)

phải|frame|Bìa Bản Giao hưởng Số 5 của Beethoven. Có thể thấy lời đề tặng Thân vương [[Lobkowitz|J. F. M. Lobkowitz và Bá tước Rasumovsky.]]

Bản Giao hưởng Số 5 cung Đô thứ Op. 67 "Định mệnh" được Beethoven sáng tác vào giai đoạn 1804-1808. Đây là một trong những bản giao hưởng âm nhạc cổ điển nổi tiếng nhất và phổ biến nhất, và thường được trình diễn tại các buổi hòa tấu. Bản giao hưởng gồm bốn chương (movement): chương mở đầu sonata, andante, chương scherzo tiết tấu nhanh dẫn đến chương cuối attacca. Nó được trình diễn lần đầu tiên tại nhà hát opera Theater an der Wien ở Viên năm 1808, ngay sau đấy bản giao hưởng đã trở lên nổi tiếng. E.T.A. Hoffmann miêu tả nó là "một trong những tác phẩm lớn của thời đại".

Tác phẩm mở đầu băng mô típ bốn nốt "ngắn-ngắn-ngắn-dài" (3 nốt móc đơn, nốt tròn ngân tự do) lặp lại hai lần. ()

{\clef treble \key c \minor \time 2/4 {r8 g'8 [ g'8 g'8 ] | ees'2\fermata | r8 f'8 [ f'8 f'8 ] | d'2 (| d'2\fermata) | } }

Bản Giao hưởng và mô típ bốn nốt nhạc mở đầu này trở nên nổi tiếng trên thế giới và thường xuyên được sử dụng trong văn hoá đại chúng từ nhạc disco cho đến rock and roll và xuất hiện cả trong điện ảnh và truyền hình.

Lịch sử

Quá trình sáng tác

Bản giao hưởng Số 5 có một quá trình thai nghén lâu dài. Những phác thảo đầu tiên cho nó được Beethoven bắt tay vào thực hiện vào năm 1804 ngay sau khi ông hoàn thành Bản Giao hưởng số 3. Tuy nhiên, quá trình sáng tác tác phẩm này bị gián đoạn bởi việc chuẩn bị cho những tác phẩm khác như vở opera Fidelio, bản piano sonata Appassionata, ba bản Razumovsky cho tứ tấu bộ dây, Concerto cho Violin, bản Giao hưởng số 4 và Mass cung Đô trưởng. Mãi cho đến năm 1807 Beethoven mới có thể quay lại với việc sáng tác bản giao hưởng số 5 và hoàn thành vào năm 1808. Nó được thực hiện song song với bản giao hưởng số 6 và cả hai bản giao hưởng này được công diễn vào cùng một ngày.

Beethoven hoàn thành bản Giao hưởng Số 5 ở giữa những năm ba mươi tuổi khi cuộc sống của ông gặp nhiều rắc rối bởi căn bệnh điếc ngày càng trầm trọng. Bối cảnh lịch sử thế giới khi đó được đánh dấu bởi những cuộc chiến của Napoléon, bạo loạn chính trị ở Áo, và sự chiếm đóng kinh đô Viên của binh đoàn Napoléon vào năm 1805.

Ra mắt

Bản Giao hưởng Số 5 được biểu diễn ra mắt vào ngày 22 tháng 12 năm 1808 trong một buổi hoà nhạc đồ sộ tại nhà hát Theater an der Wien do đích thân Beethoven chỉ huy. Buổi biểu diễn kéo dài hơn bốn giờ đồng hồ. Hai bản Giao hưởng được trình diễn theo thứ tự đảo ngược, bản số 6 trước rồi mới đến bản Số 5. Chương trình của buổi biểu diễn như sau:

Giao hưởng số 6

Aria: "Ah, perfido", Op. 65

The Gloria các chương của Mass cung Đô trưởng

Concerto số 4 cho Piano (chơi bởi Beethoven)

(Giải lao)

Giao hưởng số 5

The Sanctus and Benedictus các chương của Mass cung Đô trưởng

Độc tấu ngẫu hứng của Beethoven

Đồng ca fantasia

nhỏ|phải|[[Theater an der Wien như nó xuất hiện trong đầu thế kỷ 19]]

Beethoven dành tặng bản Giao hưởng Số 5 của ông cho hai người bảo trợ, Vương công Franz Joseph von Lobkowitz và Bá tước Razumovsky. Dòng đề tặng xuất hiện trên bản in nhạc phổ lần đầu tiên vào tháng 4 năm 1809.

Tiếp nhận và ảnh hưởng

Buổi biểu diễn ra mắt tác phẩm nhận được rất ít phản hồi do diễn ra trong điều kiện khó khăn. Trước đó, dàn nhạc giao hưởng chưa có thời gian luyện tập – chỉ tập được một buổi duy nhất – và khi một nhạc công mắc lỗi trong lúc biểu diễn Đồng ca Fantasia, Beethoven đã phải cho ngừng toàn bộ dàn nhạc và biểu diễn lại từ đầu. Khán phòng hôm đó cực kỳ lạnh và khán giả đã kiệt sức vì buổi biểu diễn quá dài. Tuy nhiên, một năm rưỡi sau đó, nhạc phổ của bản nhạc được xuất bản do tác động của một bài phê bình ca ngợi cuồng nhiệt do một tác giả ẩn danh viết (mà thực chất chính là E.T.A. Hoffmann) đăng trên tờ san Allgemeine musikalische Zeitung. Ông đã mô tả bản nhạc với những hình ảnh đầy kịch tính:

Ánh sánh rực rỡ chiếu xuyên qua màn đêm thăm thẳm, và lúc ấy ta mới nhận ra bóng tối khổng lồ đang lắc lư tới lui đã bao trùm lên ta, huỷ diệt mọi thứ bên trong ta chỉ trừ nỗi đau của niềm khắc khoải vô tận – cái khắc khoải mà trong đó mọi sự khoái lạc ngân lên trong cung bậc hân hoan đều bị dìm xuống và chết lịm, và chỉ qua nỗi đau ấy – cái thống trị nhưng không huỷ diệt tình yêu, hy vọng và niềm vui – ngực ta như muốn nổ tung bởi hơi thở dồn dập trong những hoà âm tràn ngập âm thanh của niềm đam mê, chúng ta bám lấy cuộc sống và trở thành người nắm giữ linh hồn.

Hoffman dành phần lớn nhất trong bài ngợi ca nồng nhiệt này để phân tích chi tiết bản giao hưởng, nhằm cho độc giả thấy được cách thức Beethoven sử dụng để nhấn mạnh những hiệu ứng đặc biệt đối với thính giả. Trong một bài luận mang tên "Nhạc không lời của Beethoven", kết hợp bài phê bình này cùng một bài viết khác vào năm 1813 về tác phẩm tam tấu đàn dây Op. 70, xuất bản trong ba số vào tháng 12 năm 1813, E.T.A. Hoffman ngợi ca thêm "bản giao hưởng cung Đô thứ kỳ diệu, sâu sắc không bút nào tả xiết."

Bản giao hưởng tuyệt diệu này, trong một cao trào cứ lên cao mãi, cao mãi, đã đưa đẩy thính giả rơi vào thế giới tâm linh của sự vô tận mới thật mãnh liệt!… Không nghi ngờ rằng toàn bộ làn sóng nhu động giống như một khúc Rhasody cuồng tưởng đã tinh tế đã đi qua bao người, nhưng tâm hồn của mỗi một thính giả am tường chắc chắn đã bị khuấy động một sâu sắc và mật thiết bởi cảm giác rằng không có một địa hạt tâm linh nào khác nơi nỗi buồn và niềm vui lại có thể ôm ấp lấy anh ta bằng những âm thanh…

Bản giao hưởng sớm đạt được vị trí như một tác phẩm trung tâm trong sự nghiệp của Beethoven. Như một biểu tượng của nhạc cổ điển, nó được chơi mở màn cho những buổi hoà nhạc của Dàn nhạc Giao hưởng New York vào ngày 7 tháng 12 năm 1842, và Dàn nhạc Giao Hưởng Quốc gia Mỹ ngày 2 tháng 11 năm 1931. Những yếu tố sáng tạo đột phá cả về kỹ thuật lẫn khả năng tác động tới cảm xúc của nó đã có sức ảnh hưởng sâu rộng tới các nhà soạn nhạc và giới phê bình âm nhạc, và là nguồn cảm hứng cho rất nhiều tác phẩm sau này của Brahms, Tchaikovsky (tiêu biểu là trong bản Giao hưởng số 4 của ông), Bruckner, Mahler, và Hector Berlioz. Giao hưởng số 5 cùng với bản Giao hưởng số 3 (Anh hùng ca) và Giao hưởng số 9 (Thánh ca) trở thành những bản giao hưởng có tính cách mạng nhất của Beethoven.

Nhạc cụ

Bản Giao hưởng Số 5 được chơi bởi các nhạc cụ: piccolo (chỉ xuất hiện trong chương 4), 2 sáo, 2 oboe, 2 clarinet cung Si giáng và Đô, 2 bassoon, contrabassoon (chỉ xuất hiện trong chương 4), 2 kèn cor cung Mi giáng và Đô, 2 trumpet, 3 trombon (alto, tenor, và bass, chỉ xuất hiện trong chương 4), trống timpani (gam Son-Đô) và bộ vỹ.

Kết cấu

Một buổi biểu diễn kiểu mẫu thường kéo dài 30 phút. Tác phẩm chia làm bốn chương:

Chương 1: Allegro con brio

Chương đầu mở màn với mô típ 4 nốt đã đề cập ở trên, một trong những mô tip nổi tiếng nhất của âm nhạc phương Tây. Có khá nhiều tranh cãi giữa các nhạc trưởng về nhịp điệu để chơi bốn nốt mở màn này. Một số nhạc trưởng tuân thủ chặt chẽ theo nhịp allegro (nhịp nhanh khoảng 120-168 nhịp trên phút); một số khác nhằm nhấn mạnh sự nặng nề của tiếng gõ cửa định mệnh lại chơi bốn nốt mở đầu với nhịp điệu rất chậm và trang nghiêm; một số khác thì chơi theo nhịp molto ritardando (chơi mỗi nhịp bốn nốt chậm dần), cho rằng dấu lặng trên nốt thứ tư đóng vai trò cân bằng. Một số nhà phê bình nhấn mạnh điều quan trọng là phải thể hiện được tinh thần của nhịp hai-một và cho rằng nhịp một-hai-ba-bốn thường bị chơi sai.

Chương đầu được viết theo hình thức sonata truyền thống mà Beethoven thừa hưởng từ những nhà soạn nhạc cổ điển tiền bối Haydn và Mozart (trong đó ý tưởng chính được thể hiện ngay từ những trang đầu tiên và được tiếp tục đưa đẩy và phát triển lên qua rất nhiều nốt nhạc, với sự lặp lại kịch tính của đoạn mở đầu – dấu tóm tắt – ở quãng ba phần tư của toàn bộ chương). Nó bắt đầu với hai đoạn kịch tính cực mạnh, một mô tip nổi tiếng nhằm thu hút sự chú ý của thính giả. Tiếp theo bốn nhịp đầu Beethoven sử dụng biện pháp lặp và tiếp nối để phát triển chủ đề. Bốn nốt lặp lại ngắn gọn như xô đầy lên nhau với nhịp độ đều đặn tạo nên một giai điệu đơn nhất liên tục trôi chảy. Ngay sau đó, một đoạn nối được chơi bằng kèn cor với âm hưởng nhanh mạnh thế chỗ trước khi chủ đề thứ hai được giới thiệu. Chủ đề thứ hai này được chơi ở cung Mi giáng, giọng trưởng tương đương, và nó trữ tình hơn, được viết cho piano và với bốn nốt mô típ được chơi phụ hoạ bởi bộ vỹ. Phần tái hiện một lần nữa lại dựa trên bốn nốt mô típ. Sự phát triển của phân đoạn tiếp tục sử dụng biện pháp chuyển giọng, tiếp nối và lặp lại và đoạn nối. Trong đoạn lặp lại này, có một phần độc tấu ngắn dành cho oboe theo phong cách gần như ngẫu hứng, và toàn bộ chương đầu kết thúc với coda (đoạn kết của một chương nhạc) mãnh liệt.

Chương hai: Adante con moto

Chương hai chơi ở cung La giáng trưởng mang đậm tính trữ tình với hình thức chủ đề kép biến tấu, tức là hai chủ đề cùng xuất hiện và biến đổi luân phiên nhau. Tiếp theo những đoạn biến tấu là một phần coda dài.

Chương này mở đầu với sự lên tiếng của chủ đề thứ nhất, một giai điều được đồng tấu bằng viola và cello với double bass phụ hoạ. Chủ đề thứ hai ngay lập tức theo sau bằng hoà âm tạo ra bởi clarinet, basson, violin, với giải âm ba nốt cho viola và bass. Ở đoạn biến tấu tiếp theo chủ để thứ nhất lại xuất hiện và tiếp nối nó là chủ để thứ ba, 32 nốt chơi bằng viola và cello với một đoạn đối chọi chơi bởi sáo, oboe và basson. Tiếp theo một khúc chuyển tiếp toàn bộ dàn nhạc cùng hoà tấu với nhịp điệu cực mạnh, dẫn tới một đoạn cao trào mạnh dần, và đoạn coda để kết thúc chương.

Chương ba: Scherzo. Allegro

Chương ba có cấu trúc ba lớp, bao gồm scherzo và trio được viết theo khuôn mẫu của chương ba trong nhạc giao hưởng thời kỳ Cổ điển, trong đó đoạn scherzo chính được chơi liên hoàn, rồi đến một phần trio đối lập, và đoạn scherzo sẽ lặp lại, và đến coda kết thúc. Tuy nhiên trong khi nhạc giao hưởng thời kỳ Cổ điển thông thường sử dụng minuet và trio cho chương ba thì Beethoven lại có cách tân bằng cách sử dụng cấu trúc scherzo và trio.

Chương ba này lại quay lại chơi ở cung Đô thứ ở đoạn mở đầu và bắt đầu với chủ đề được chơi bằng cello và double bass:()

\relative c{ \clef bass \key c \minor \time 3/4 \partial 4 g\pp \mark "Allegro" c ees g c2 ees4 d2 fis,4 g2.}

Chủ đề mở màn được đáp lại bằng một chủ để tương phản chơi bằng nhạc cụ bộ hơi, và đoạn này được lặp lại. Sau đó kèn cor lên tiếng mạnh mẽ để tuyên bố chủ để chính của chương và phần nhạc phát triển từ đây.

Phần trio chơi ở cung Đô trưởng và được viết theo lối đối âm. Khi đoạn scherzo trở lại lần cuối cùng, nó được chơi bằng bộ dây hết sức nhẹ nhàng với kỹ thuật pizzicato.

"Phần scherzo tạo sự đối lập tương tự như những giai điệu chậm trong đó chúng phát triển từ những đặc điểm cực kỳ khác biệt giữa scherzo và trio… Scherzo đối lập hình ảnh này với mô tip (3+1) nổi tiếng của chương đầu, cái có tính quyết định xuyên suốt toàn bộ chương."

Chương 4: Allegro

Âm điệu hân hoan và hồ hởi của chương kết ngay lập tức theo sau scherzo mà không hề bị ngắt quãng. Nó được viết theo hính thức sonata biến thể khác lạ: ở phần cuối của đoạn phát triển chủ đề, các nhạc cụ tạm ngưng ở phách át, chơi cực mạnh, và âm nhạc được tiếp tục chơi sau đoạn ngừng với điệp khúc nhẹ nhàng của "chủ đề kèn cor" trong điệu scherzo. Phần tóm tắt sau đó được giới thiệu bằng nhịp điệu mạnh dần phát ra từ những nhịp cuối cùng của phần scherzo thêm vào, giống hệt nhạc của phần mở đầu chương. Đưa phần tạm ngưng vào chương cuối với chất liệu từ ‘vũ điệu’ thứ ba này lần đầu tiên được Haydn sử dụng trong tác phẩm Giao hưởng số 46 cung Si của ông vào năm 1977. Không ai biết liệu có phải Beethoven học tập từ tác phần này hay không.

Chương cuối Bản giao hưởng Số 5 kết thúc bằng một coda rất dài, trong đó những chủ đề chính của chương được chơi theo hình thức cô đọng về nhịp điệu. Càng tới cuối nhịp điệu chuyển dần về presto (rất nhanh). Bản giao hưởng kết thúc bằng 29 nhịp ở hợp âm Đô trưởng, chơi cực mạnh. Charles Rosen trong The Classical Style cho rằng kết thúc này thể hiện cảm nhận Beethoven về tính thương quan trong nhạc thời kỳ Cổ điển: đoạn "kết dài đến khó tin" hoàn toàn ở cung đô trưởng là cần thiết "để kết lại sự căng thẳng tột độ của tác phẩm đồ sộ này."

Ảnh hưởng

Nhà nghiên cứu âm nhạc thế kỷ 19, Gustav Nottebohm lần đầu tiên chỉ ra rằng chủ đề trong chương ba của tác phẩm này có chung chuỗi các quãng như phần mở đầu của chương cuối của bản Giao hưởng số 40 cung Son thứ K.550 của Mozart. Đây là phần mở đầu của Mozart:()

giữa|500 px

Trong khi sự giống nhau ngẫu nghiên đôi cũng khi xảy ra trong âm nhạc, trường hợp của Beethoven có vẻ không phải do tình cờ. Nottebohn khám phá ra sự tương đồng này khi xem xét bản nháp mà Beethoven sử dụng để soạn thảo Bản giao hưởng Số 5 và thấy rằng 29 nhịp hợp âm kết thúc của Mozart được Beethoven sao chép lại.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
phải|frame|Bìa Bản Giao hưởng Số 5 của Beethoven. Có thể thấy lời đề tặng Thân vương [[Lobkowitz|J. F. M. Lobkowitz và Bá tước Rasumovsky.]] **Bản Giao hưởng Số 5 cung Đô thứ Op. 67 "Định
**Giao hưởng số 6, cung Fa trưởng, Op. 68**, hay còn gọi là **Giao hưởng đồng quê** (tiếng Đức: **Pastoral-Sinfonie**), là bản giao hưởng nổi tiếng của nhà soạn nhạc vĩ đại người Đức Ludwig
**Giao hưởng số 5** có thể là: * Giao hưởng số 5 của Joseph Haydn * Giao hưởng số 5 của Wolfgang Amadeus Mozart * Giao hưởng số 5 của Ludwig van Beethoven * Giao
**Giao hưởng số 4 cung Si giáng trưởng, Op. 60** là bản giao hưởng của nhà soạn nhạc thiên tài người Đức Ludwig van Beethoven. Ông sáng tác nó vào mùa hè năm 1806. Tác
[[Dàn nhạc giao hưởng Việt Nam trong buổi hòa nhạc tổ chức tại Nhà hát Lớn Hà Nội]] **Giao hưởng** là các tác phẩm lớn trong nền âm nhạc cổ điển phương Tây, thường được
Trong nghệ thuật, không ít tác phẩm đã bị bỏ dở giữa chừng. Trong nhạc cổ điển cũng vậy, có khà nhiều bản giao hưởng đã không được hoàn chỉnh (đáng ra chúng được 4
Dàn nhạc giao hưởng [[München, 2008]] **Dàn nhạc giao hưởng** là một tổng thể về biên chế các nhạc cụ được sử dụng theo những nguyên tắc nhất định nhằm phục vụ cho việc diễn
nhỏ|Beethoven vào năm 1801 **Sonata cho vĩ cầm số 5** cung Fa trưởng, Op. 24, là một tác phẩm gồm bốn chương nhạc dành cho violin và piano của nhà soạn nhạc Đức lừng danh
nhỏ|Dàn nhạc Giao hưởng Việt Nam tại [[Nhà hát Lớn Hà Nội]] Dàn nhạc Giao hưởng Việt Nam (VNSO) được thành lập theo quyết định số 79/VH-QĐ, ngày 14/6/1984, trực thuộc Bộ Văn hóa (nay
**Ludwig van Beethoven** (rửa tội ngày 17 tháng 12 năm 1770 – 26 tháng 3 năm 1827) là một nhà soạn nhạc cổ điển người Đức. Ông là một hình tượng âm nhạc quan trọng
Wolfgang Amadeus Mozart (1756–1791) đã có ảnh hưởng lớn tới các tác phẩm của Ludwig van Beethoven (1770–1827). Beethoven rất kính trọng Mozart; một số tác phẩm của ông gợi nhớ đến phong cách âm
nhỏ|Số 9 có phải là số định mệnh cho nhạc sĩ sáng tác giao hưởng ?.|110x110px Trong lịch sử âm nhạc, nhất là thời kì nhạc cổ điển, bản giao hưởng số 9 (symphony n°9)
nhỏ|Fassbender Beethoven Dưới đây là các sáng tác của nhà soạn nhạc thiên tài người Đức Ludwig van Beethoven ## Opera Fidelio (1805, sửa lại năm 1806 và 1814) ## Nhạc cho các tác phẩm
**Sonata cho vĩ cầm số 4** cung La trưởng, Opus 23 là một tác phẩm của nhà soạn nhạc lừng danh Ludwig van Beethoven. Bản nhạc này được sáng tác vào năm 1801 và được
là bộ phim hoạt hình phiêu lưu, khoa học viễn tưởng Nhật Bản năm 2024. Đây là phim điện ảnh thứ 43 trong loạt phim điện ảnh _Doraemon_. Bộ phim được đạo diễn bởi Imai
**_Trò chơi con mực_** (Hangul: , tiếng Anh: _Squid Game_) là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc do Hwang Dong-hyuk viết kịch bản và đạo diễn. Phim được Netflix phát hành trực tuyến vào
**Franz Joseph Haydn** (31 tháng 3 năm 1732 – 31 tháng 5 năm 1809) là một nhà soạn nhạc người Áo và là một trong những nhà soạn nhạc xuất chúng của nền âm nhạc
**Daniel Barenboim** (sinh năm 1942) là nghệ sĩ piano và nhạc trưởng người Israel. Ông là một trong những nhạc trưởng Israel xuất sắc nhất. ## Tiểu sử ### Thời niên thiếu Cậu bé 11
Bản **Sonata cho dương cầm số 2** cung Si giáng thứ, Op. 35, là một bản sonata cho dương cầm gồm bốn chương của nhà soạn nhạc người Ba Lan Frédéric Chopin. Chopin hoàn thành tác phẩm
Ngày **22 tháng 12** là ngày thứ 356 (357 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 9 ngày trong năm. Trong tiết khí, ngày này hoặc ngày 21 tháng 12 là ngày đông chí. ##
nhỏ|phải|Sergei Vasilievich Rachmaninoff, khi ông 29 tuổi.|273x273px **Sergei Vasilievich Rachmaninoff** hoặc **Sergey Vasilyevich Rakhmaninov** (tiếng Nga: Сергей Васильевич Рахманинов; 1 tháng 4 năm 1873 tại Novgorod - 28 tháng 3 năm 1943 tại Beverly Hills)
**Si giáng trưởng** (viết tắt là **B**) là một cung thứ có chất liệu sáng tác âm nhạc với cung chính là nốt **Si giáng** (**B**), bao gồm các nốt nhạc **Si giáng** (**B**), Đô
**Napoléon Bonaparte** (tên khai sinh là **Napoleone Buonaparte**; 15 tháng 8 năm 1769 – 5 tháng 5 năm 1821), sau này được biết đến với tôn hiệu **Napoléon I**, là một chỉ huy quân sự
**Giáo hoàng** (, ) là vị giám mục của Giáo phận Rôma, lãnh đạo tinh thần của Giáo hội Công giáo toàn thế giới. Theo quan điểm của Giáo hội Công giáo, giáo hoàng là
**Carl Nielsen** (1865–1931) được biết đến là nhà soạn nhạc danh tiếng nhất Đan Mạch, với nhiều cách tân trong sáng tác và đậm màu sắc âm nhạc truyền thống. Hình ảnh của ông đã
right|thumb|Một ví dụ về "vẻ đẹp trong toán học" - một chứng minh đơn giản và thanh lịch về [[Định lý Pythagore.]] **Vẻ đẹp của Toán học** mô tả quan niệm rằng một số nhà
**Đô thăng thứ** là một cung thứ dựa trên nốt Đô thăng (C#), bao gồm các nốt sau **Đô#**, Re#, **Mi;**, Fa#, **Sol#**, La, Si. Bộ khóa của nó có 4 dấu thăng. Âm giai
**Nguyễn Văn Thương** (22 tháng 5 năm 1919 – 5 tháng 12 năm 2002) là một nhạc sĩ, nhà giáo, nghệ sĩ người Việt Nam. Có tác phẩm đầu tay từ năm 17 tuổi vào
**Ủy hội châu Âu** (, ) là một tổ chức quốc tế làm việc hướng tới việc hội nhập châu Âu. Ủy hội được thành lập năm 1949 và có một sự nhấn mạnh đặc
Mùa đầu tiên của bộ phim truyền hình Hàn Quốc **Trò chơi con mực** do Hwang Dong-hyuk viết kịch bản và đạo diễn, được Netflix phát hành trực tuyến vào ngày 17 tháng 9 năm
nhỏ|[[Bedřich Smetana, tác giả tập thơ giao hưởng _Má vlast_, năm 1878]] nhỏ|phải **Má vlast** (tiếng Việt: **Tổ quốc tôi**) là bản giao hưởng thơ của nhà soạn nhạc người Séc Bedřich Smetana. Ông viết
nhỏ|phải|Honegger trên tờ tiền 20 franc Thụy Sĩ năm 1996. **Arthur Honegger** (; sinh ngày 10 tháng 3 năm 1892 tại Le Havre, mất ngày 27 tháng 11 năm 1955 tại Paris) là nhà soạn
**Wojciech Kilar** (; sinh 17 tháng 7 năm 1932 - mất 29 tháng 12 năm 2013) là một nhà soạn nhạc cho các phim của Ba Lan. Nhạc phim ông sáng tác đã giành được
**Kèn trôm-pét** (phát âm bắt nguồn từ tiếng Pháp: _trompette_), còn gọi là **trumpet**, là một kèn đồng có âm thanh cao nhất trong bộ đồng. Trumpet là một trong những nhạc cụ cổ nhất,
**Belle** là một nhân vật hư cấu xuất hiện trong bộ phim hoạt hình chiếu rạp thứ 30 của Walt Disney Pictures, _Người đẹp và quái thú_ (1991). Nàng sau đó cũng xuất hiện trong
**Rê thứ** (thường được viết tắt là **Dm**) là một cung thứ có chất liệu sáng tác âm nhạc với cung chính là nốt Rê (D), bao gồm các nốt nhạc **Rê**, Đô, Si giáng,
**Đô thứ** (viết tắt là **Cm**), còn được gọi là **Si thăng thứ** (viết tắt là **B♯m**) là một cung thứ dựa trên nốt Đô (**C**), bao gồm các nốt sau **Đô** (**C**), Rê (D),
"**Smoke on the Water**" là một bài hát của ban nhạc rock người Anh Deep Purple, được phát hành lần đầu trong album _Machine Head_ (1972) của nhóm. Năm 2004, bài hát xếp thứ 426
**Service** là tập thứ tư trong Phần 7 của series phim truyền hình _The Walking Dead_. Tập phim được phát sóng trên kênh AMC của Mỹ vào ngày 13 tháng 11 năm 2016. Khi phát
nhỏ|Chân dung Mendelssohn, 1839 **Piano Concerto số 1 giọng Son thứ**, op.25 của Mendelssohn được viết trong năm 1830-1831, cùng khoảng thời gian với bản giao hưởng thứ tư "Italy" và được ra mắt trong
**1808** (số La Mã: **MDCCCVIII**) là một năm nhuận bắt đầu vào thứ Sáu trong lịch Gregory. ## Sự kiện *Beethoven hoàn thành bản giao hưởng số 5 và số 6. ## Sinh ## Mất
nhỏ|302x302px|Ảnh Liszt của Nadal, năm 1886, 4 tháng trước khi ông mất **Franz Liszt** (; ; 22 tháng 10 năm 1811 - 31 tháng 7 năm 1886) là một nghệ sĩ piano và nhà soạn
**Frédéric François Chopin** (tên khai sinh là **Fryderyk Franciszek Szopen**; 1 tháng 3 năm 181017 tháng 10 năm 1849) là một nhà soạn nhạc và nghệ sĩ dương cầm người Ba Lan sống trong thời
**George Frideric Handel** (tiếng Đức: **Georg Friedrich Händel**; hoặc **Georg Frederick Handel** ) (23 tháng 2 năm 1685 – 14 tháng 4 năm 1759) là nhà soạn nhạc người Anh gốc Đức thuộc thời kỳ
**Franz Peter Schubert** (31 tháng 1 năm 1797 - 19 tháng 11 năm 1828) là một nhà soạn nhạc người Áo. Ông đã sáng tác 600 Lieder, chín bản giao hưởng trong đó có bản
**Dmitri Dmitrievich Shostakovich** (, ; 9 tháng 8 năm 1975; phiên âm: **Sô-xta-cô-vích**) là một nhà soạn nhạc và nghệ sĩ dương cầm người Nga thời Liên Xô. Ông được coi là một trong những
**Louis Hector Berlioz** (11 tháng 12 năm 1803 - 8 tháng 3 năm 1869) là một nhà soạn nhạc người Pháp thuộc trường phái lãng mạn, được biết đến nhiều nhất nhờ các bản _Symphonie
"**Stairway to Heaven**" là một bài hát của ban nhạc rock người Anh Led Zeppelin, phát hành vào cuối năm 1971. Ca khúc được sáng tác bởi tay guitar của ban nhạc Jimmy Page và
**Sir Thomas Beecham, Tòng nam tước thứ hai**, CH (29 tháng 4 năm 1879 - 8 tháng 3 năm 1961), là nhạc trưởng nổi tiếng người Anh. Thomas Beecham không chỉ là một nhạc trưởng
**Claudio Abbado** (1933 – 2014) là nhạc trưởng người Ý. Ông là một trong những vị nhạc trưởng Ý xuất sắc nhất thế kỷ XX. ## Tiểu sử ### Thời niên thiếu Claudio Abbado sinh