✨Giáo hoàng Piô VI

Giáo hoàng Piô VI

Piô VI (Tiếng La Tinh: Pius VI, tiếng Ý: Pio VI) là vị giáo hoàng thứ 250 của giáo hội Công giáo Rôma.

Theo niên giám Tòa thánh năm 1806 thì ông lên ngai tòa Phêrô vào năm 1774 và cai quản giáo hội trong 24 năm 6 tháng 14 ngày. Niên giám tòa thánh năm 2003 xác định ông đắc cử Giáo hoàng vào ngày 15 tháng 2 năm 1775. Ngày khai mạc chức vụ mục tử Đoàn chiên Chúa là ngày 22 tháng 2 năm 1775 và kết thúc triều đại của mình vào ngày 29 tháng 8 năm 1799.

Trong lúc trị vì, ông phải đối diện với hai vấn đề lịch sử cực kỳ quan trọng: Đại cách mạng Pháp và sự leo thang độc đoán của Napoléon Bonaparte. Cả hai sự kiện đó đã đặt lên vai ông những vấn đề lớn. Napoléon viện cớ xâm chiếm Quốc gia Giáo hoàng, bắt Giáo hoàng Piô VI làm tù binh và áp giải ông đến Pháp. Tuổi tác và bệnh tình nghiêm trọng, ông qua đời chỉ một vài ngày sau đó.

Giáo hoàng

Giáo hoàng Piô VI sinh tại Cesena với tên khai sinh là Giovanni Angelo Baraschi vào ngày 27 tháng 11 năm 1717 tại Cesena, Ý. Ông là người kế nhiệm Giáo hoàng Clêmentê XIV.

Năm thánh 1775

Năm Thánh lần thứ 19 - 1775 đã được cố Giáo hoàng Clêmentê XIV chuẩn bị. Khi Clêmentê XIV qua đời, tân Giáo hoàng Piô VI đã khai mạc Năm Thánh. Năm Thánh 1775 cũng là Năm Thánh ngắn nhất trong lịch sử.

Đế quốc Áo

phải|Giáo hoàng VI gặp Hoàng đế [[Joseph II của Thánh chế La Mã|Joseph II của nhà Habsburg.]] Sau nhiều năm đấu tranh của Tòa Thánh, cuối cùng quyền tối cao thiêng liêng của họ cũng được nhìn nhận. Nhưng chủ trương Pháp giáo (Gallicanisme) đã gây nhiều ảnh hưởng sang đế quốc Áo dưới triều vua Joseph II (1765–1790). Hoàng đế nước Áo giành lấy quyền bổ nhiệm các Giám mục và cấm công bố sắc lệnh của Giáo hoàng khi chưa có sự chấp nhận của triều đình. Từ năm 1782 - 1789, Joseph II giải tán gần 700 tu viện. Trước tình cảnh đó, Giáo hoàng Piô VI phải đích thân sang Áo (1782) để thuyết phục hoàng đế Joseph II nhưng vô hiệu.

Cuộc Đại cách mạng Pháp

Bản Dân hiến giáo sĩ

Năm 1789, bùng nổ cuộc Đại cách mạng Pháp. Ngày 14 tháng 7, dân chúng đánh chiếm ngục Bastille, cuộc nổi dậy bùng nổ ở nhiều nơi trong cả nước. Ngày 4 tháng 8 quốc hội thảo luật việc thành lập một chế độ mới. Tài sản của giáo hội cũng như các tu viện bị quốc hữu hóa.

Theo tinh thần thời Ánh Sáng và chủ trương Pháp giáo, ngày 12 tháng 7 năm 1790, quốc hội phổ biến bản Dân hiến Giáo sĩ gồm 89 khoản, tổ chức lại Giáo hội Pháp được chia làm bốn cương mục: Phụng vụ, Tuyển cử, Bổng cấp và Trú sở. Theo đó từ nay chỉ có 83 giáo phận theo ranh giới tỉnh mới (thay vì 134); chức giám mục và cha sở sẽ do hội đồng tuyển cử gồm cả người ngoại đạo bầu lên; sau đó mới thông tin cho Giáo hoàng.

Trước khi bản Dân hiến được thi hành, cần có sự phê chuẩn của nhà vua. Ở vào một tình thế bối rối khó xử, vua Pháp Louis XVI trao bản Dân hiến cho Tòa thánh Rôma xét xử và quyết định.

Trong khi chờ đợi, ngày 24 tháng 8, vua Louis XVI bị bắt buộc phải phê chuẩn bản Dân hiến. Ngày 28 tháng 11, quốc hội buộc các giáo sĩ trong vòng tám ngày phải thề hứa tuân theo bản Dân hiến. Các giáo sĩ không tuyên thệ không được làm việc nữa, họ được thay thế dần bằng các giám mục và linh mục do dân bầu lên.

Giáo hoàng Piô VI ngần ngại mãi, ông sợ một hội nghị lập hiến sẽ lấy của Tòa thánh đất Comtat Venaissin nằm trong lãnh thổ Pháp, và cũng sợ gây rối loạn trong nước.

Ngày 10 tháng 3 năm 1791, Giáo hoàng Piô VI công bố đoản sắc "Quod Aliquantulum" kết án bản "Dân Hiến Giáo sĩ" trong đó có nêu:

Ngày 13 tháng 4 năm 1791, ông ra đoản sắc "Caritas" tuyên bố bản "Dân hiến giáo sĩ" đã xây dựng trên những nguyên tắc lạc thuyết. Giáo hoàng đòi những vị tuyên thệ phải rút lại lời thề và cấm các giám mục mới được bầu không được thi hành sứ vụ.

Ngày 18 tháng 8 năm 1794, Giáo hoàng Piô VI lại ban hành Sắc chỉ "Auctorem fidei" lên án 25 điều của Thượng hội đồng Pistoie (1786).

Napoléon tấn công Tòa thánh

Ngày 27 tháng 10 năm 1795, Chấp chính viện (Directoire) lên cầm quyền với một hiến pháp mới: Hiến pháp năm III dân quốc. Cuộc bách hại Giáo hội còn diễn ra ở nhiều nơi, kéo dài thêm 4 năm nữa. Quân đội của Napoléon Bonaparte hành quân vào kinh thành Rôma.

Giáo hoàng Piô VI coi Napoléon Bonaparte như một tên tay sai của địa ngục, vì Napoléon đã được phong làm tổng chỉ huy để thưởng công đã diệt trừ được những người bảo hoàng sùng đạo ngày 13 tháng Hái nho và Giáo hoàng đã hết sức giúp đỡ nước Áo trong cuộc chiến tranh đầy gian khổ. Sau khi vua Mơde nộp thành Măngtu cho người Pháp, Napoléon Bonaparte mở cuộc tấn công vào đất đai Tòa thánh.

Quân đội của Giáo hoàng bị tan vỡ ngay từ trận đầu và tháo chạy. Các thành phố lần lượt đầu hàng Napoléon. Giáo hoàng Piô VI khiếp sợ đã viết một bức thư lời lẽ khẩn khoản giao cho cháu là Hồng y Máttêi cùng đi với một phái đoàn mang đến Napoléon Bonaparte để cầu hòa. Napoléon đã chấp nhận lời đề nghị.

Ngày 19 tháng 2 năm 1797, Giáo hoàng Piô VI phải ký hòa ước Tolentino với điều kiện là Giáo hoàng phải nhường lại cho Pháp một bộ phận đất đai khá rộng và giàu có nhất gồm đất Avignon, Venaissain và ba vùng Bắc Ý là Bolonia, Ferrara và Ravenna để lập nước Cộng hòa Cisalpina, trả một khoản đảm phụ 30 triệu Phrăng vàng, nộp những bức tranh và những bức tượng đẹp nhất trong các viện bảo tàng. Năm sau, Berthier tiến quân vào giáo đô, trục xuất Giáo hoàng Piô VI và lập nước Cộng hòa Rôma. Vị Giáo hoàng 82 tuổi phải rời khỏi Rôma ngày 20 tháng 12 năm 1798 bị đưa đến Valence và qua đời ngày 29 tháng 8 năm 1799. Trong lịch sử giáo hội Công giáo hiện đại, ông là vị Giáo hoàng đầu tiên qua đời ở ngoài nước Ý.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Piô VI** (Tiếng La Tinh: _Pius VI_, tiếng Ý: _Pio VI_) là vị giáo hoàng thứ 250 của giáo hội Công giáo Rôma. Theo niên giám Tòa thánh năm 1806 thì ông lên ngai tòa
**Giáo hoàng Piô XII** (Tiếng Latinh: _Pius PP. XII_, Tiếng Ý: _Pio XII_, tên khai sinh là **Eugenio Maria Giuseppe Giovanni Pacelli**, 2 tháng 6 năm 1876 – 9 tháng 10 năm 1958) là vị
**Giáo hoàng Piô IX** (Tiếng Latinh: _Pie IX_; tiếng Ý: _Pio IX_; tên khai sinh: **Giovanni Maria Mastai Ferretti**;) là vị giáo hoàng thứ 255 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh
**Piô VII** là vị giáo hoàng thứ 251 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng vào ngày 14 tháng 3 năm 1800 và ở
**Giáo hoàng Piô XII và Trung Quốc** nói về quan hệ giữa tòa thánh và Trung Quốc từ 1939-1958. Nó bắt đầu từ sự công nhận những lễ nghi của Trung Quốc bởi tòa thánh
**Thánh Piô X, Giáo hoàng** (Tiếng Latinh: _Sancte Pie X_) (2 tháng 6 năm 1835 – 20 tháng 8 năm 1914), tên khai sinh: **Melchiorre Giuseppe Sarto** là vị Giáo hoàng thứ 257 của Giáo
**Giáo hoàng Piô XI** (tiếng Latinh: **Pius XI**, tiếng Ý: **Pio XI**) là vị Giáo hoàng thứ 259 của Giáo hội Công giáo Rôma. Theo niên giám tòa thánh năm 2003 xác định ngày đắc
**Thánh Giáo hoàng Piô V**, (Tiếng Latinh: _Sancte Pie V_, tiếng Ý: _San Pio V_) là vị giáo hoàng thứ 225 của giáo hội Công giáo. Ông đã được giáo hội suy tôn là thánh
**Piô II** (Latinh: **Pius II**) là vị giáo hoàng thứ 210 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1458 và ở ngôi Giáo
**Giáo hoàng Piô I** (Latinh: _Pius I_) là vị giáo hoàng thứ 10 của Giáo hội Công giáo. Niên giám Tòa Thánh năm 2003 thì ông cai trị từ năm 140 cho tới năm 155.
**Giáo hoàng Piô VIII** (20 tháng 11 năm 1761 – 1 tháng 12 năm 1830), là vị giáo hoàng thứ 253 của Giáo hội Công giáo tên lúc sinh là **Francesco Saverio Castiglioni**, tại vị
**Thánh Giáo hoàng Phaolô VI** (tiếng Latinh: _Paulus VI_; tiếng Ý: _Paolo VI_, tên khai sinh: **Giovanni Battista Enrico Antonio Maria Montini**; 26 tháng 9 năm 1897 – 6 tháng 8 năm 1978) là giáo
**Alexanđê VI** (1 tháng 1 năm 1431 – 18 tháng 8 năm 1503) (Tiếng Latinh: _Alexander VI_, tiếng Tây Ban Nha: _Alejandro VI_, tiếng Catalan: _Alexandre VI_) là vị giáo hoàng thứ 214 của giáo
**Lãnh địa Giáo hoàng** hay **Nhà nước Giáo hoàng** (tiếng Ý: _Stato Pontificio_; tiếng Anh: _Papal States_), tên gọi chính thức là **Nhà nước Giáo hội** hay **Quốc gia Giáo hội** (tiếng Ý: _Stato della
**Piô III** (Latinh: **Pius III**) là vị giáo hoàng thứ 215 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1503 và ở ngôi Giáo
**Piô IV** (Latinh: **Pius IV**) là vị giáo hoàng thứ 224 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1559 và ở ngôi Giáo
**Lêô XII** (Latinh: **Leo XII**) là vị giáo hoàng thứ 252 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1860 thì ông đắc cử Giáo hoàng vào ngày 28 tháng 9 năm
**Thánh Giáo hoàng Gioan XXIII** (Tiếng Latinh: _Ioannes PP. XXIII_; tiếng Ý: _Giovanni XXIII_, tên khai sinh: **Angelo Giuseppe Roncalli**, 25 tháng 11 năm 1881 – 3 tháng 6 năm 1963) là vị Giáo hoàng
**Giáo hoàng** (, ) là vị giám mục của Giáo phận Rôma, lãnh đạo tinh thần của Giáo hội Công giáo toàn thế giới. Theo quan điểm của Giáo hội Công giáo, giáo hoàng là
**Giáo hoàng Biển Đức XV** (tiếng Latinh: _Benedictus PP. XV_, tiếng Ý: _Benedetto XV_; 21 tháng 11 năm 1854 - 22 tháng 1 năm 1922) tên khai sinh: **Paolo Giacomo Giovanni Battista della Chiesa,** là
**Giáo hoàng Gioan Phaolô I** (Latinh: _Ioannes Paulus PP. I_, tiếng Ý: _Giovanni Paolo I_, tên khai sinh là **Albino Luciani**, 17 tháng 10 năm 1912 – 28 tháng 9 năm 1978) là vị Giáo
**Giáo hoàng Lêô XIII** (Latinh: **Leo XIII**) là vị giáo hoàng thứ 256 của Giáo hội Công giáo Rôma. Niên giám tòa thánh năm 2003 xác định ngày đắc cử giáo hoàng của ông là
**Gioan Phaolô II** (hay **Gioan Phaolô Đệ Nhị;** tiếng Latinh: _Ioannes Paulus II_; tên khai sinh: **Karol Józef Wojtyła,** ; 18 tháng 5 năm 1920 – 2 tháng 4 năm 2005) là vị giáo hoàng
**Giáo hoàng Phaolô III** (Tiếng Latinh: **Paulus III**, Tiếng Ý: _Paolo III_) (29 tháng 2 năm 1468 – 10 tháng 11 năm 1549) là vị Giáo hoàng thứ 220 của Giáo hội Công giáo Rôma.
**Clêmentê XI** (Latinh: **Clemens XI**) là vị giáo hoàng thứ 243 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1700 và ở ngôi Giáo
nhỏ|Tranh bích họa giữa thánh Brigitte và Urban V, khoảng năm 1437. **Giáo hoàngUrbanô V** (Latinh: **Urbanus V**) là vị giáo hoàng thứ 200 của giáo hội Công giáo. Tên Urbanô là do tiếng Latinh
**Giáo hoàng Anaclêtô** (Latinh: _Anacletus_, phát âm: A-na-clê-tô hoặc Clê-tô) là Giám mục Rôma và là vị giáo hoàng thứ ba của Giáo hội Công giáo sau Thánh Phêrô và Thánh Linô. Triều đại Giáo
**Giáo hoàng Lêô XI** (2 tháng 6 năm 1535 – 27 tháng 4 năm 1605), tên thật là **Alessandro Ottaviano de' Medici**, ông ở ngôi giáo hoàng từ ngày 1 tháng 4 năm 1605 đến
**Viện Hàn lâm Giáo hoàng về Khoa học** (tiếng Ý: _Pontificia accademia delle scienze_, tiếng Latin: _Pontificia Academia Scientiarum_) là viện hàn lâm khoa học của Tòa Thánh Vatican, được giáo hoàng Piô XI thành
**Năm của ba giáo hoàng** là cách gọi một năm mà trong đó Giáo hội Công giáo phải bầu hai giáo hoàng mới – tức là có ba người khác nhau làm giáo hoàng trong
**Giáo hoàng Lêôn I** hay **Lêôn Cả** (Latinh: _Leo I_) là giáo hoàng thứ 45 của Giáo hội Công giáo Rôma, kế vị giáo hoàng Xíttô III. Ông là một trong những vị Giáo hoàng
**Anicêtô** (Latinh: _Anicetus_) là vị Giáo hoàng thứ 11 của Giáo hội Công giáo. Ông được suy tôn là một vị thánh của Giáo hội. Triều đại Giáo hoàng của ông bắt đầu từ năm
**Gregôriô XVI** (Latinh: **Gregorius XVI**) là vị giáo hoàng thứ 254 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1860 thì ông đắc cử Giáo hoàng vào ngày 2 tháng 2 năm
**Grêgôriô XIII** (, ) là vị giáo hoàng thứ 226 của Giáo hội Công giáo Rôma. Theo niên giám Tòa Thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1572 và ở ngôi Giáo
**Sixtô V** (Latinh: _Sixtus V_) là vị giáo hoàng thứ 227 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1585 và ở ngôi Giáo
**Phao lô II** (Latinh: **Paulus II**) là vị Giáo hoàng thứ 211 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1464 và ở ngôi
**Giáo hoàng Grêgôriô XV** (Latinh: **Gregorius XV**) là vị giáo hoàng thứ 234 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1621 và ở
Giáo hoàng Học viện Thánh Piô X Đà Lạt, ngày nay là trụ sở của Trung tâm Đào tạo của Viện Hạt nhân và Trung tâm Văn hóa Thanh Thiếu Niên tỉnh Lâm Đồng. **Giáo
|tên viết tắt=|formation=|leader_title=Bề trên Tổng quyền|named_after=Giáo tông Pius X|established=|founder=Marcel Lefebvre|headquarters=Menzingen, Thụy Sĩ|membership=|membership_year=2022|key_people= **Huynh đoàn Linh mục Thánh Pius X** (tiếng Latinh: ; tên viết tắt: **FSSPX** và đôi khi là **SSPX**) là một huynh đoàn
**Cosma Hoàng Văn Đạt** (sinh 1947) là một Giám mục Công giáo người Việt Nam. Khẩu hiệu Giám mục của ông là _"Tình thương và sự sống"_. Ông từng đảm trách vai trò Giám mục
**Francesco Forgione,** còn được biết đến với tên **Thánh Piô Năm Dấu**, **Cha Piô** (tiếng Ý: _Padre Pio_)**, Cha Thánh Piô, Cha Thánh Piô Năm Dấu, Thánh Padre Pio, Thánh Piô Pietrelcina** và **Thánh Piô
**Người tù ở Vatican** (tiếng Ý: Prigioniero nel Vaticano; tiếng Latinh: Captivus Vaticani; tiếng Anh: Prisoner in the Vatican) hoặc **Tù nhân của Vatican**, là cách mà các Giáo hoàng tự gọi bản thân mình
**Giáo hội Công giáo**, gọi đầy đủ là **Giáo hội Công giáo Rôma**, là giáo hội Kitô giáo được hiệp thông hoàn toàn với vị giám mục giáo phận Rôma, hiện tại là Giáo hoàng
**Lịch sử của Giáo hội Công giáo Việt Nam từ năm 1975 đến năm 1990** có nhiều điểm đặc thù riêng. Đây là giai đoạn 15 năm thứ hai kể từ khi thiết lập hàng
**Công giáo tại Việt Nam** là một bộ phận của Giáo hội Công giáo, dưới sự lãnh đạo tinh thần của các giám mục tại Việt Nam, hiệp thông với giáo hoàng. Với số tỉ
Giáo hội Công giáo dành một sự tôn kính đặc biệt cho **Maria** (mẹ của Chúa Giêsu). Điều này được dựa trên những quy điển của Kinh Thánh về màu nhiệm nhập thể của Con
**Pio Taofinu'u, S.M.** (1923 - 2006) là một Hồng y người Samoa của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm nhận vai trò Hồng y Đẳng Linh mục Nhà thờ S. Onofrio, Tổng giám
**Hội Công giáo Yêu nước Trung Quốc** (tiếng Hoa:中国天主教爱国会, bính âm: _Zhōngguó Tiānzhǔjiào Àiguó Huì_, âm Hán-Việt: _Trung Quốc Thiên Chúa giáo Ái quốc Hội_; viết tắt theo tiếng Anh là **CPA**, **CPCA**, hoặc **CCPA**)
**Tổng giáo phận Huế** (tiếng Latin: _Archidioecesis Hueensis_) là một tổng giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở miền trung Việt Nam. Tính đến năm 2019, Tổng Giáo phận Huế có diện tích
**Chính thống giáo Cổ Đông phương** là các Giáo hội Kitô giáo Đông phương chỉ công nhận ba công đồng đại kết đầu tiên: Công đồng Nicaea thứ nhất, Công đồng Constantinopolis thứ nhất và