Grêgôriô II (Tiếng Latinh: Gregorius II) là vị giáo hoàng thứ 89 của giáo hội Công giáo. Ông là người kế nhiệm Giáo hoàng Constantinô và đã được giáo hội suy tôn là thánh sau khi qua đời. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ngài đắc cử Giáo hoàng vào năm 715 và cai quản giáo hội trong 16 năm 8 tháng 24 ngày. Niên giám tòa thánh năm 2003 xác định triều đại của ngài bắt đầu vào ngày 19 tháng 5 năm 715 và kết thúc vào ngày 11 tháng 2 năm 731.
Trước khi trở thành giáo hoàng
Gregorius II sinh tại Rôma trong gia đình Savelli. Với triều đại của ông, quyền lực thế tục thực sự của Giáo hoàng được bắt đầu. Ngay từ khi còn trẻ Grêgôriô đã dính dáng đến công việc của Giáo hội. Chính Giáo hoàng Sergius I là người nhận thấy những đức tính cao quý nơi người trẻ tuổi này và đã tấn phong Grêgôriô làm trợ phó tế. Ông phục vụ liên tiếp dưới bốn triều đại Giáo hoàng với chức vụ thủ quỹ, và sau đó là quản thủ thư viện.
Ông được giao cho các nhiệm vụ quan trọng và tháp tùng Đức Giáo hoàng Constantine đến Constantinople để phản đối Hoàng Đế Justinian II về các nghị định chống lại tây phương của Công Đồng Trullan II (692). Sau khi Đức Constantine từ trần, Grêgôriô được chọn làm Giáo hoàng và được tấn phong năm 715. Chọn tên Grêgôriô, vị Giáo hoàng này muốn tiếp tục con đường của vị tiền nhiệm ở thế kỷ VII, là Thánh Grêgôriô Cả.
Triều đại
Những khắc biệt về ý kiến giữa Hoàng Đế Phương Đông và Đại Giáo chủ Ravenna tiếp diễn. Ông triệu tập một công đồng để lên án lạc giáo bài trừ ảnh thánh (đập phá các ảnh thánh). Gregorius II đã phản ứng lại sắc lệnh của triều đình ở Constantinople nghiêm cấm việc tôn kính ảnh tượng thánh. Các tỉnh của Ý nổi dậy chống lại quân đội của hoàng đế Leo III; nước Ý đã trục xuất được bè phái Phá Huỷ Tượng Thánh. Ông thực hiện một cuộc phúc âm hoá mạnh mẽ nơi dân tộc Đức.
Đức Grêgôriô làm Giáo hoàng trong 15 năm. Trong thời gian này, ông tổ chức các thượng hội đồng để chấn chỉnh các nhũng lạm, ngăn chặn lạc giáo và cổ vũ tinh thần kỷ luật và luân lý. Ông tái xây dựng một phần lớn các tường thành Rôma để bảo vệ thành phố này chống với các cuộc tấn công của quân Lombard. Gregorius II tái thiết nhiều nhà thờ, và đặc biệt rất quan tâm đến người đau yếu và người già. Đan viện thật lớn gần nhà thờ Thánh Phaolô đã được tái thiết, cũng như tu viện của Monte Cassino mà quân Lombard đã phá hủy cách đó 150 năm. Và cũng như Đức Grêgôriô I, ông biến dinh thự của gia đình mình thành một đan viện.
Trước việc tranh chấp ảnh tượng Đức Grêgôriô II nói: "Không được thờ ảnh tượng, cũng không được đập phá". Thái độ khôn ngoan này không vừa ý các hoàng đế Đông Phương đập phá ảnh thánh, gây khó dễ cho Toà Thánh. Một đàng, Đức Grêgôriô cố gắng thay đổi ý nghĩ của hoàng đế. Đàng khác, ông khuyên dân chúng trung thành với hoàng tử, luôn luôn khuyến khích các Giám mục chống với tà thuyết.
Quan hệ với Thánh Boniface
Gregorius II tấn phong Thánh Boniface và Thánh Corbinian làm Giám mục để đi truyền giáo cho các sắc dân ở Đức. Bônifaciô ấy tên thật là Winfrid, một người Anh, sinh năm 675 tại thị trấn Crediton. 7 tuổi, Bônifaciô đã nhập Dòng Biển Đức, tại Exeter. Chẳng bao lâu cậu trở thành sinh viên, rồi giáo sư, rồi giám đốc nhà trường ở Tu Viện Nursling gần Manschester. Mơ ước của ông là Tin Mừng hóa nước Đức còn mọi rợ.
Boniface đã thử hoạt động ở miền Frise nhưng không có kết quả ông quyết định đi Roma, yết kiến Đức Giáo hoàng, xin chỉ thị. Mùa Đông 718–719, Boniface có mặt tại Roma và những ngày này quyết định tất cả hoạt động của người. Giáo hoàng Grêgôriô II, dù bận nhiều công việc vẫn hằng quan tâm đến việc Tin Mừng hóa nước Đức.
Cuộc hội kiến với Winfrid làm Giáo hoàng rất hài lòng. Ông lập tức trao cho Winfrid quyền thừa sai Giáo hoàng tại nước Đức và nói: "Từ nay người ta không gọi con là Winfrid nữa, mà là Bônifaciô, nghĩa là kẻ làm điều thiện hảo".
Trong suốt cả cuộc đời, vị thừa sai này luôn trung thành với lời thề trên mộ Thánh Phêrô, liên lạc với Đức Giáo hoàng bằng thư từ. Những bức thư quý giá ấy ngày nay người ta còn đọc được. Mối liên lạc thật tốt đẹp không khác gì mối liên lạc giữa Đức Grêgôriô Cả và Giám mục Âu Tinh bên nước Anh thời trước.
Năm722, Đức Giáo hoàng Gregorius II viết thư cho Carôlô Búa, xin ông giúp đỡ và ủng hộ Thánh Boniface đang làm công tác Tin Mừng Hoá tại đất Nhật Nhĩ Man. Carôlô Búa đã phúc đáp thư Giáo hoàng, bảo đảm đặt vị thừa sai dưới sự bảo vệ cá nhân của mình.
Chính trong những cuộc thương thuyết với Hoàng Đế Lêô III mà người ta mới thấy sức mạnh tinh thần cũng như sự kiên nhẫn của Đức Grêgôriô. Hoàng Đế Lêô đòi phải tiêu hủy tất cả các ảnh tượng thánh, và trừng phạt những ai không tuân lệnh. Khi các Giám mục không thuyết phục được hoàng đế về sự sai lầm của ông, họ thỉnh cầu đến Giáo hoàng.
Gregorius II từ trần vào tháng 2 năm 731.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Grêgôriô II ** (Tiếng Latinh: _Gregorius II_) là vị giáo hoàng thứ 89 của giáo hội Công giáo. Ông là người kế nhiệm Giáo hoàng Constantinô và đã được giáo hội suy tôn là thánh
**Giáo hoàng Grêgôriô I** (Latinh: _Gregorius I_), thường được biết đến là **Thánh Grêgôriô Cả**, là vị giáo hoàng thứ 64 của Giáo hội Công giáo. Cùng với Giáo hoàng Lêôn I, ông được suy
**Grêgôriô III ** (tiếng Latinh: _Gregorius III_) là vị giáo hoàng thứ 90 của Giáo hội Công giáo. Ông là người kế nhiệm Giáo hoàng Gregorius II. Ông đã được giáo hội suy tôn là
**Grêgôriô VII** (Latinh: **Gregorius VII**) là một giáo hoàng có vai trò rất lớn đối với lịch sử giáo hội Công giáo và được suy tôn là thánh sau khi qua đời. Ông là nhân
**Grêgôriô IX** (Latinh: **Gregorius IX**) là vị giáo hoàng thứ 178 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1127 (1227?) và ở ngôi
**Urbanô II** (Latinh: **Urbanus II**) là người kế nhiệm Giáo hoàng Victor III và là vị giáo hoàng thứ 159 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc
**Grêgôriô XIII** (, ) là vị giáo hoàng thứ 226 của Giáo hội Công giáo Rôma. Theo niên giám Tòa Thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1572 và ở ngôi Giáo
**Clêmentê II** (Latinh: **Clemens II**) là người kế nhiệm Giáo hoàng Gregory VI sau khi vị này bị cưỡng bách từ chức vào ngày 20 tháng 12 năm 1046. Theo niên giám tòa thánh năm
**Stêphanô II** hoặc **III** (Tiếng Latinh: _Stephanus II_) là giáo hoàng thứ 92 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông được chọn Giáo hoàng vào năm 752. Niên
**Hônôriô II** (Latinh: **Honorius II**) là người kế nhiệm Giáo hoàng Callixtus II và là vị giáo hoàng thứ 163 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc
**Innôxentiô II** (Latinh: **Innocens II**) là vị giáo hoàng thứ 164 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1130 và ở ngôi Giáo
**Phao lô II** (Latinh: **Paulus II**) là vị Giáo hoàng thứ 211 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1464 và ở ngôi
**Lãnh địa Giáo hoàng** hay **Nhà nước Giáo hoàng** (tiếng Ý: _Stato Pontificio_; tiếng Anh: _Papal States_), tên gọi chính thức là **Nhà nước Giáo hội** hay **Quốc gia Giáo hội** (tiếng Ý: _Stato della
**Grêgôriô X** (Latinh: **Gregorius X**) là vị giáo hoàng thứ 184 của giáo hội công giáo. Ông đã được giáo hội suy tôn lên hàng chân phước sau khi qua đời. Theo niên giám tòa
**Grêgôriô XII** (Latinh: **Gregorius XII**) là vị giáo hoàng thứ 205 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1406 và ở ngôi Giáo
nhỏ|280x280px|Tài liệu _[[Dictatus Papae_ về thẩm quyền của Giáo hoàng được viết vào thế kỷ 11, hiện được lưu trong Văn khố Tông tòa Vatican, ghi lại quá trình danh xưng "giáo hoàng" trở nên
nhỏ|235x235px|Quốc huy của [[Tòa Thánh]] Dưới đây là **danh sách các giáo hoàng** theo quốc gia nơi sinh ở thời cổ đại – Trung Cổ và theo quốc tịch ở thời hiện đại, được liệt
**Grêgôriô VIII** hay **Gregory VIII** (chết 1137), tên khai sinh là **Mauritius Burdinus** (Maurice Bourdin), là Giáo hoàng đối lập từ ngày 10 tháng 3 năm 1118 đến ngày 22 tháng 4 1121. Ông sinh
**Giáo hoàng** (, ) là vị giám mục của Giáo phận Rôma, lãnh đạo tinh thần của Giáo hội Công giáo toàn thế giới. Theo quan điểm của Giáo hội Công giáo, giáo hoàng là
**Biển Đức IX** hoặc **Bênêđictô IX** (Latinh: _Benedictus IX_) là giáo hoàng được liệt kê ở vị trí thứ 145, 147, 150 của Giáo hội Công giáo. Triều đại Giáo hoàng này xảy ra nhiều
**Hônôriô III** (Latinh: **Honorius III**) là vị giáo hoàng thứ 177 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1216 và ở ngôi Giáo
**Thánh Giáo hoàng Piô V**, (Tiếng Latinh: _Sancte Pie V_, tiếng Ý: _San Pio V_) là vị giáo hoàng thứ 225 của giáo hội Công giáo. Ông đã được giáo hội suy tôn là thánh
**Giáo hoàng Phanxicô** ( ; ; ; 17 tháng 12 năm 1936 – 21 tháng 4 năm 2025; tên thật là **Jorge Mario Bergoglio**) là vị giáo hoàng thứ 266 của Giáo hội Công giáo
**Anacletus II** (mất ngày 25 tháng 1 năm 1138) tên khai sinh: Pietro Pierleoni, là một giáo hoàng đối lập trị vì từ năm 1130 cho đến khi qua đời, trong sự ly giáo nhằm
**Fêlix III** (Tiếng Anh: Felix III) là người kế nhiệm giáo hoàng Simpliciô và là vị Giáo hoàng thứ 48. Ông đã được suy tôn là thánh của nhà thờ công giáo. Theo niên giám
**Victor IV** (chết sau tháng 4 năm 1139), là một giáo hoàng đối lập trong một thời gian ngắn vào năm 1138. Ông sinh ra ở Ceccano với tên là **Gregorio Conti**. Giáo hoàng Paschal
**Sixtô V** (Latinh: _Sixtus V_) là vị giáo hoàng thứ 227 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1585 và ở ngôi Giáo
**Innôcentê III** (Latinh: **Innocens III**) là vị giáo hoàng thứ 176 của Giáo hội Công giáo Rôma. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1198 và ở ngôi
phải|Bảng danh sách cổ về các [[Giáo hoàng, bảng này đã từng bị chôn vùi và quên lãng ngay trong Vương cung thánh đường Thánh Phêrô.]] **Danh sách các Giáo hoàng** tại đây dựa vào
**Năm của ba giáo hoàng** là cách gọi một năm mà trong đó Giáo hội Công giáo phải bầu hai giáo hoàng mới – tức là có ba người khác nhau làm giáo hoàng trong
**Nicôla I** (Latinh: Nicolaus I) là vị giáo hoàng thứ 105 của giáo hội Công giáo. Là người kế nhiệm Giáo hoàng Benedict III, Giáo hoàng Nicolau I được giáo hội suy tôn là thánh
**Innôcentê IV** (Latinh: **Innocens IV**) là vị giáo hoàng thứ 180 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1243 và ở ngôi Giáo
**Ađrianô I** hoặc **Hadrianô I ** (Tiếng Latinh: **Adrianus I**) là vị giáo hoàng thứ 95 của giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng vào
Sau cái chết của Giáo hoàng Sergius IV vào tháng 6 năm 1012, "một Gregory" đã phản đối nhóm của Theophylae (người đã được bầu làm Giáo hoàng Biển Đức VIII) và được một nhóm
**Piô VII** là vị giáo hoàng thứ 251 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng vào ngày 14 tháng 3 năm 1800 và ở
nhỏ|Lăng mộ của Giáo hoàng đối lập Gioan XXIII |309x309px **Lăng mộ của Giáo hoàng đối lập Gioan XXIII** là một lăng mộ được xây bằng đá cẩm thạch và đồng của Giáo
**Giáo hội Công giáo**, gọi đầy đủ là **Giáo hội Công giáo Rôma**, là giáo hội Kitô giáo được hiệp thông hoàn toàn với vị giám mục giáo phận Rôma, hiện tại là Giáo hoàng
**Công giáo tại Việt Nam** là một bộ phận của Giáo hội Công giáo, dưới sự lãnh đạo tinh thần của các giám mục tại Việt Nam, hiệp thông với giáo hoàng. Với số tỉ
**Vai trò của Kitô giáo với nền văn minh nhân loại** rất lớn và phức tạp. Nó đan xen với lịch sử và sự hình thành của xã hội phương Tây, và nó đã đóng
nhỏ|Huy hiệu của [[Maximilian II của Thánh chế La Mã|Maximilian II từ 1564 tới 1576. Các hoàng đế sử dụng đại bàng hai đầu làm biểu tượng quyền lực]] **Hoàng đế La Mã Thần thánh**
phải|nhỏ|Bản đồ các giáo phận Công giáo Việt Nam **Giáo hội Công giáo tại Việt Nam** hiện tại được tổ chức theo địa giới gồm có 3 giáo tỉnh là Hà Nội, Huế và Sài
nhỏ|Mathilde von Tuszien và Hugo von Cluny biện hộ cho Heinrichs IV **Tranh cãi việc bổ nhiệm giáo sĩ** là đỉnh điểm của một cuộc xung đột chính trị trong thời Trung cổ châu Âu
**Giáo phận Vương quyền Salzburg** (tiếng Đức: _Fürsterzbistum Salzburg_) là một Điền trang hoàng gia và nhà nước giáo hội của Đế quốc La Mã Thần thánh. Nó là một lãnh thổ thế tục được
right|thumb|Năm 1122, [[Heinrich V của đế quốc La Mã Thần thánh ký kết một thỏa thuận với Giáo hoàng Calixtô II được gọi là Hợp đồng Worms.]] **Thoả ước Worms** (), đôi khi được gọi
**Mật nghị Hồng y 2013** (hoặc **_Cơ mật viện bầu Giáo hoàng năm 2013_**) được triệu tập theo sau việc Giáo hoàng Biển Đức XVI thoái vị vào ngày 28 tháng 2 năm 2013. 115
[[Nhà nguyện Sistina|Nhà nguyện Sistine, địa điểm tổ chức Mật nghị Hồng y kể từ năm 1492.]] **Mật nghị hồng y** (hay còn gọi **Cơ mật viện bầu Giáo hoàng**) là một cuộc họp kín
**Công đồng Lateran II** do giáo hoàng Innôcentê II triệu tập năm 1139. Có khoảng 1.000 tham dự viên họp trong tháng 4, để lên án việc ly giáo của Anacletus. Công đồng Lateran II
**Công đồng Lyon II** do Giáo hoàng Grêgôriô X triệu tập năm 1272-1274. Có khoảng 500 giám mục và 570 giáo sĩ (có Thánh Thomas và Bonaventura), hoàng đế Đông Phương M. Paleologus cũng tham
**Thánh Phêrô** hay **Thánh Peter** (Tiếng Hy Lạp: _Πέτρος_, _Pétros_ "Đá", **Kêpha** (**Cephas**), **Phi-e-rơ**, hoặc thỉnh thoảng là **Simôn con ông Giôna**; Tiếng Anh: **Saint Peter**) là tông đồ trưởng trong số mười hai Tông
**Heinrich IV** (11 tháng 11 năm 1050 – 7 tháng 8 năm 1106) là con trai đầu của hoàng đế Heinrich III và nữ hoàng Agnes. Ông là Vua La Mã Đức từ năm 1056,