✨Giáo hoàng Clêmentê VI

Giáo hoàng Clêmentê VI

Clêmentê VI (Latinh: Clemens VI) là vị giáo hoàng thứ 198 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1342 và ở ngôi Giáo hoàng trong 10 năm 7 tháng. Niên giám tòa thánh năm 2003 xác định ông đắc cử Giáo hoàng ngày 7 tháng 5 năm 1342, ngày khai mạc chức vụ mục tử đoàn chiên chúa là ngày 19 tháng 5 và ngày kết thúc triều đại của ông là ngày 6 tháng 12 năm 1352.

Trước khi thành giáo hoàng

Giáo hoàng Clemens VI sinh tại Maumont, Pháp vào khoảng năm 1290 hoặc 1291 với tên là Piere Roger de Beaufort. Ông là con trai của hiệp sĩ Limousin. Ông là đan sĩ Bênêđictô ở Chaise- Dieu, học tại Paris.

Là giáo sư chuyên khoa thần học và thông thạo về một nền văn hóa lớn vừa cổ điển vừa linh thánh, ông nhanh chóng có tiếng là nhà thuyết giảng tài ba.

Ông được coi là người học thức và đức hạnh, là một người tuy nghiêm khắc nhưng rất quảng đại. Năm 1326, ông trở thành viện phụ của Fécamp rồi Giám mục của Rouen năm 1330.

Ông là cố vấn và nhiều lần là đại sứ của Philippe VI Anh và ở Avignon. Năm 1329, ông là phát ngôn viên của hàng giáo sĩ ở hội nghị Vincennes về các quyền tài phán của giáo hội.

Năm 1333, ông được Gioan XXII giao trọng tách hô hào thập tựu chinh. Là hồng y thánh hiệu thánh Nêrê và Achilê.

Giáo hoàng

Ông được bầu làm Giáo hoàng ngày 7 tháng 5 năm 1342.

Cái chết đen

Nạn dịch hạch đen năm 1348-1349 tàn phá khắp châu Âu, giết hại trên 40 triệu người. Giáo hoàng Clement VI đã ra tay cứu trợ các bệnh nhân nhất là ở Avignon, nơi có tới 62.000 người mắc bệnh.

Ông ở lại Avignon vào giữa trận dịch. Sau ôn dịch là nạn đói, rồi khủng hoảng kinh tế xã hội, đến cuộc bắt bớ người Do Thái. Ông đã bảo vệ người Do Thái. Cuộc nội chiến xâu xé nước Ý. Thành Roma vắng Giáo hoàng càng tồi tệ, tan hoang.

Tháng 10 năm 1349, Giáo hoàng Clement VI đã phải ban lệnh bãi bỏ việc những nhóm người sám hối đi khắp phố phường tự đánh phạt mình để van nài ơn thương xót Chúa, nhất là trong thời chiến tranh ôn dịch do pha lẫn nhiều hành động quá khích, cuồng nhiệt, dị đoan. Những nhóm này xuất hiện đầu tiên vào những năm 1260-1261 và sau đó có mặt ở khắp Chấu Âu.

Năm thánh 1350

Năm 1343, một đoàn đại biểu từ Rôma đi Avignon (Pháp) gặp Clêmentê VI (1342-1352) đang cư ngụ tại đây, để xin có một năm Thánh đặc biệt vào năm 1350. Lời yêu cầu này dựa theo truyền thống của đạo Do thái được ghi lại trong sách Lêvi là cứ sau 49 năm thì năm thứ 50 là Năm Hồng Ân.

Một lý do khác của việc phái đoàn Rôma xin mở Năm Thánh, đó là thành phố Rôma đang gặp khó khăn chồng chất do việc vắng mặt Giáo hoàng quá lâu và họ hy vọng rằng biến cố Năm Thánh sẽ tạo một cơ hội thuận tiện cho Đức Thánh Cha trở lại Rôma.

Đức Clêmentê VI đồng ý mở Năm Thánh 1350 và ban hành ơn toàn xá cho những tín hữu nào đến viếng mộ Thánh Phêrô và Phaolô cũng như viếng Đền thờ Gioan Latêranô. Việc mở năm tòa xá được giảm từ 100 năm xuống còn 50 năm. Tuy nhiên, vì lý do chính trị, ông không thể trở về Rôma. Do đó, có thể nói rằng Năm Thánh 1350 là Năm Thánh không có Giáo hoàng.

Cai quản giáo hội

Clêmentê VI đã giữ một vai trò quan trọng trong việc cai quản giáo hôi và cho triều đình Giáo hoàng giữ một vẻ huy hoàng chưa từng có. Ông củng cố chế độ Giáo hoàng và làm nặng thêm chế độ thuế khóa. Với một khoảng thời gian ngắn ngủi ông đã phung phí sạch kho tài sản do đấng tiền nhiệm dày công tích luỹ.

Năm 1348, đức Clemente VI mua thành phố này với giá 80.000 phật lăng (năm 1791 cách mạng Pháp truất hữu). Bảy vị Giáo hoàng Avignon, đều quốc tịch Pháp; 113 trong số 134 hồng y thời Avigon là người Pháp. Cạnh đấy, Tòa thánh có khu đất Comtat Venaissin từ năm 1274. Avignon và Comtat Venaissin thuộc quyền Tòa thánh cho đến năm 1791, năm nổ ra cuộc đại cách mạng Pháp.

Vai trò trung gian

Clement VI còn là một nhà ngoại giao nổi tiếng. Ông là vị Giáo hoàng cuối cùng giữ vai trò rất bị tranh cãi, của một trọng tài trong các công việc của châu Âu. Ông thử đem lại sự hòa bình giữa Anh và Pháp nhưng vô ích.

Ông cũng thất bại trong vụ làm trung gian giữa Aragnon và Majorca. Ban đầu ông ủng hộ Cola di Rienzo ở Rôma nhưng về sau thì không, khi mà Cola di Rienzo đi đến một chế độ cai trị dân chúng thái quá và các gia đình quý tộc tổ chức nổi loạn, Cola di Rienzo bị bắt và giải đến Đức Giáo hoàng ở Avignon thì Đức Giáo hoàng đã dứt phép thông công và tống ngục ông ta.

Ngoài ra, Clêmentê VI còn là một nhà giảng thuyết trứ danh, ưa thích văn nghệ. Nhưng ông đã để lại một chế độ gia đình trị được cho là quá đáng: bốn trong các cháu của ông là Hồng y – một là Giáo hoàng Grêgôriô XI, và một sẽ là tổng Giám mục. Một người cháu khác làm nguyên soái của giáo hội. Tuy nhiên, chính sách gia đình trị này cũng được thể hiện tinh vi đến nỗi em ông là Hugues Roger de Beufort tuy được bầu làm Giáo hoàng năm 1352 nhưng đã từ khước chiếc mũ ba tầng vì "khiêm nhường".

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Clêmentê VI** (Latinh: **Clemens VI**) là vị giáo hoàng thứ 198 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1342 và ở ngôi Giáo
**Clêmentê VII** (Latinh: **Clemens VII**) là vị giáo hoàng thứ 219 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông được bầu làm Giáo hoàng năm 1523 và ở ngôi
**Clêmentê I** (Latinh: _Clemens I_) cũng được gọi là **Clement thành Roma** hay **Clement thuộc Roma** (Latinh: _Clemens Romanus_), để phân biệt với Alessandrinus (?-97). Ông được nhắc đến từ rất sớm là Giám mục
**Clêmentê XIV** (Latinh: **Clemens XIV**) là vị giáo hoàng thứ 249 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1769 và ở ngôi Giáo
**Clêmentê XIII** (Latinh: **Clemens XIII**) là vị giáo hoàng thứ 248 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1758 và ở ngôi Giáo
**Clêmentê XI** (Latinh: **Clemens XI**) là vị giáo hoàng thứ 243 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1700 và ở ngôi Giáo
**Clêmentê X** (Latinh: **Clemens X**) là vị giáo hoàng thứ 239 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1670 và ở ngôi Giáo
**Clêmentê II** (Latinh: **Clemens II**) là người kế nhiệm Giáo hoàng Gregory VI sau khi vị này bị cưỡng bách từ chức vào ngày 20 tháng 12 năm 1046. Theo niên giám tòa thánh năm
**Piô VI** (Tiếng La Tinh: _Pius VI_, tiếng Ý: _Pio VI_) là vị giáo hoàng thứ 250 của giáo hội Công giáo Rôma. Theo niên giám Tòa thánh năm 1806 thì ông lên ngai tòa
**Clêmentê XII** (Latinh: **Clemens XII**) là vị giáo hoàng thứ 246 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1730 và ở ngôi Giáo
**Urbanô VI** (Latinh:**Urbanus VI**) là vị Giáo hoàng thứ 202 của giáo hội Công giáo. Theo niên giám Tòa Thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1378 và ở ngôi Giáo hoàng
**Innôcentê VI** (Latinh: **Innocens VI**) là vị giáo hoàng thứ 199 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1352 và ở ngôi Giáo
**Clêmentê V** (Latinh: **Clemens V**) là vị giáo hoàng thứ 195 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1303 và ở ngôi Giáo
nhỏ|235x235px|Quốc huy của [[Tòa Thánh]] Dưới đây là **danh sách các giáo hoàng** theo quốc gia nơi sinh ở thời cổ đại – Trung Cổ và theo quốc tịch ở thời hiện đại, được liệt
**Clêmentê IX** (Latinh: **Clemens IX**) là vị giáo hoàng thứ 238 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1667 và ở ngôi Giáo
**Clêmentê VIII** (Latinh: **Clemens VIII**) là vị giáo hoàng thứ 231 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1592 và ở ngôi Giáo
**Clêmentê IV** (; 23 tháng 11, 1190 – 29 tháng 11, 1268), tên khai sinh **Gui Foucois** (; hay __) là vị giáo hoàng thứ 183 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa
**Clêmentê III** (Latinh: Clemens III) là vị Giáo hoàng thứ 174 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1187 và ở ngôi Giáo
**Lịch sử của chế độ Giáo hoàng** là một lịch sử lâu dài kéo dài trong suốt 2000 năm với rất nhiều sự kiện và biến động. Giáo hội Công giáo nhìn nhận Giáo hoàng
nhỏ|Giáo hoàng đối lập Clement VII **Robert Geneva** (1342-16 tháng 9 năm 1394) được bầu làm giáo hoàng đối lập với tước hiệu là Clement VII bởi các vị hồng y người Pháp phản đối
**Giáo hoàng Piô XII** (Tiếng Latinh: _Pius PP. XII_, Tiếng Ý: _Pio XII_, tên khai sinh là **Eugenio Maria Giuseppe Giovanni Pacelli**, 2 tháng 6 năm 1876 – 9 tháng 10 năm 1958) là vị
**Lãnh địa Giáo hoàng** hay **Nhà nước Giáo hoàng** (tiếng Ý: _Stato Pontificio_; tiếng Anh: _Papal States_), tên gọi chính thức là **Nhà nước Giáo hội** hay **Quốc gia Giáo hội** (tiếng Ý: _Stato della
**Thánh Giáo hoàng Piô V**, (Tiếng Latinh: _Sancte Pie V_, tiếng Ý: _San Pio V_) là vị giáo hoàng thứ 225 của giáo hội Công giáo. Ông đã được giáo hội suy tôn là thánh
**Giáo hoàng Biển Đức XIV** (Tiếng La Tinh: _Benedictus XIV_), còn gọi là **Bênêđíctô XIV** (31 tháng 3 năm 1675 – 3 tháng 5 năm 1758, tên khai sinh: **Prospero Lorenzo Lambertini**) là một giáo
**Giáo hoàng Lêô XI** (2 tháng 6 năm 1535 – 27 tháng 4 năm 1605), tên thật là **Alessandro Ottaviano de' Medici**, ông ở ngôi giáo hoàng từ ngày 1 tháng 4 năm 1605 đến
**Giáo hoàng** (, ) là vị giám mục của Giáo phận Rôma, lãnh đạo tinh thần của Giáo hội Công giáo toàn thế giới. Theo quan điểm của Giáo hội Công giáo, giáo hoàng là
**Giáo hoàng Gioan Phaolô I** (Latinh: _Ioannes Paulus PP. I_, tiếng Ý: _Giovanni Paolo I_, tên khai sinh là **Albino Luciani**, 17 tháng 10 năm 1912 – 28 tháng 9 năm 1978) là vị Giáo
**Grêgôriô VII** (Latinh: **Gregorius VII**) là một giáo hoàng có vai trò rất lớn đối với lịch sử giáo hội Công giáo và được suy tôn là thánh sau khi qua đời. Ông là nhân
**Lêôn IX** (Latinh: **Leo IX**) là người kế nhiệm Giáo hoàng Đamasô Nhị Thế và là vị giáo hoàng thứ 152 của Giáo hội Công giáo. Ông đã được giáo hội suy tôn là thánh
**Biển Đức IX** hoặc **Bênêđictô IX** (Latinh: _Benedictus IX_) là giáo hoàng được liệt kê ở vị trí thứ 145, 147, 150 của Giáo hội Công giáo. Triều đại Giáo hoàng này xảy ra nhiều
**Lêô III** (Tiếng Latinh: **Leo III**) là vị giáo hoàng thứ 96 của giáo hội Công giáo. Ông đã được Giáo hội suy tôn là thánh sau khi qua đời. Niên giám tòa thánh năm
**Giáo hoàng Phaolô III** (Tiếng Latinh: **Paulus III**, Tiếng Ý: _Paolo III_) (29 tháng 2 năm 1468 – 10 tháng 11 năm 1549) là vị Giáo hoàng thứ 220 của Giáo hội Công giáo Rôma.
**Giáo hoàng Urbanô VIII** (Latinh: **Urbanus VIII**) là vị giáo hoàng thứ 235 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1623. Niên giám
**Hônôriô III** (Latinh: **Honorius III**) là vị giáo hoàng thứ 177 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1216 và ở ngôi Giáo
**Cêlestinô V** (Latinh: **Celestinus V**) là vị Giáo hoàng thứ 192 của giáo hội công giáo. Ông đã được giáo hội suy tôn lên hàng hiển thánh sau khi qua đời. Theo niên giám tòa
**Bônifaciô IX** (Latinh: **Bonifacius IX**) là vị giáo hoàng thứ 203 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1389 và ở ngôi Giáo
**Victor III** là người kế nhiệm Giáo hoàng Gregory VII và là vị giáo hoàng thứ 158 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng
Giáo hoàng đối lập Clement III giữa và Hoàng đế Henry IV **Guibert** hay **Wibert Ravenna** (1029 - 08 Tháng 9 năm 1100) là một Giám mục người Ý, Tổng Giám mục của Ravenna, người
nhỏ|phải|Mộ của giáo hoàng Clement VIII **Clementê VIII** là một trong những Giáo hoàng đối lập của giáo triều Avignon, trị vì từ ngày 10 tháng 6 năm 1423 đến 26 tháng 7 năm 1429.
**Nicôla I** (Latinh: Nicolaus I) là vị giáo hoàng thứ 105 của giáo hội Công giáo. Là người kế nhiệm Giáo hoàng Benedict III, Giáo hoàng Nicolau I được giáo hội suy tôn là thánh
**Năm của ba giáo hoàng** là cách gọi một năm mà trong đó Giáo hội Công giáo phải bầu hai giáo hoàng mới – tức là có ba người khác nhau làm giáo hoàng trong
**Nicôla II** (Latinh: **Nicolau II**) được coi là người kế nhiệm Giáo hoàng Stephen IX sau khi Giáo hoàng giả Benedict IX bị truất phế. Theo niên giám tòa thánh năm 1861 thì ông đắc
**Gioan XXII** (Latinh: **Joannes XXII**) là vị Giáo hoàng thứ 196 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1313 và ở ngôi Giáo
**Alexanđê VIII** (Latinh: **Alexander VIII**) là vị giáo hoàng thứ 241 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1689 và ở ngôi Giáo
**Innôcentê XII** (Latinh: _Innocentius XII_) là vị giáo hoàng thứ 242 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1691 và ở ngôi Giáo
nhỏ|Tượng bán thân của giáo hoàng được điêu khắc bởi Paolo Monti. **Innôcentê X** (Latinh: **Innocens X**) là vị giáo hoàng thứ 236 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806
**Phaolô V** (Latinh: **Paulus V**) là vị giáo hoàng thứ 233 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông ở ngôi Giáo hoàng trong 15 năm 7 tháng 13
**Innôcentê XII** (Latinh: **Innocens XIII**) là vị giáo hoàng thứ 244 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1721 và ở ngôi Giáo
**Đamasô II** (Latinh: **Damasus II**), tên khai sinh là **Poppo**,, được kể như là giáo hoàng thứ 151. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1048 và ở
**Ly giáo Tây phương** hay **Ly giáo Giáo hoàng** là sự chia rẽ trong Giáo hội Công giáo từ 1378, cho đến cuộc bầu cử Giáo hoàng Máctinô V vào ngày 11 tháng 11 năm