GIÁO DỤC PHÁP – VIỆT Ở BẮC KỲ (1884-1945)
Văn hóa và giáo dục Việt Nam đã trải qua hai biến cố quan trọng trong lịch sử: lần đầu tiên vào thế kỷ XI, khi Nho giáo chính thức được chấp nhận và dần thâm nhập vào đời sống tinh thần cũng như học vấn của người Việt; lần thứ hai diễn ra sau đó chừng tám thế kỷ, khi văn hóa và giáo dục Pháp theo gót đội quân viễn chinh tràn vào nước ta. Nền giáo dục kiểu mới ở Việt Nam được hình thành trong làn sóng hiện đại hóa, Âu hóa ấy như một trào lưu không thể cưỡng nổi diễn ra khắp châu Á nói chung và Đông Nam Á nói riêng.
Ra đời trong bối cảnh thực dân, sự hình thành và phát triển của giáo dục kiểu mới ở Việt Nam có một số đặc điểm lý luận và thực tiễn cần được tìm hiểu nghiên cứu. Đó cũng chính là động lực cho sự ra đời cuốn sách Giáo dục Pháp – Việt ở Bắc Kỳ (1884-1945) của Tiến sĩ Trần Thị Phương Hoa.
Cuốn sách được trình bày thành 4 chương:
Chương I: Những nhà trường Pháp – Việt ở Bắc Kỳ cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX.
Mở đầu cuốn sách, tác giả trình bày một số vấn đề lý thuyết làm tiền đề cho việc Pháp xây dựng hệ thống trường Pháp – Việt ở Bắc Kỳ, trong đó có học thuyết của chủ nghĩa thực dân Pháp và ảnh hưởng của nó đến chính sách giáo dục ở Bắc Kỳ. Những trường học Pháp – Việt đầu tiên được xây dựng trên bối cảnh xã hội phong kiến thực dân ở Bắc Kỳ cuối thế kỷ XIX cũng được mô tả trong chương này.
Chương II: Giáo dục Pháp – Việt ở Bắc Kỳ từ đầu thế kỷ XX đến năm 1917
Giới thiệu sự hình thành chính thức của giáo dục Pháp – Việt ở Bắc Kỳ đầu thế kỷ XX, những văn bản pháp lý quan trọng liên quan tới tổ chức, các cơ quan quản lý, hệ thống trường Pháp – Việt, vị trí của trường học này trong toàn bộ hệ thống giáo dục ở Bắc Kỳ. Phần quan trọng của chương dành cho việc trình bày cải cách giáo dục lần thứ nhất của Paul Beau và kết quả của cuộc cải cách này trong việc chuyển đổi các trường Nho giáo truyền thống thành các trường Pháp – Việt.
Chương III: Giáo dục Pháp – Việt ở Bắc Kỳ từ năm 1917 đến năm 1930
Trình bày giai đoạn phát triển quan trọng nhất của giáo dục Pháp – Việt từ năm 1917 đến năm 1930. Mở đầu cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai của Albert Sarraut với việc giới thiệu nội dung của Bộ Học chính Tổng quy và sau đó là những điều chỉnh của Martial Merlin và Alexandre Varenne. Đây là giai đoạn các trường Pháp – Việt hoàn thiện về hệ thống sau rất nhiều thay đổi.
Chương IV: Giáo dục Pháp – Việt ở Bắc Kỳ từ năm 1930 đến năm 1945
Trình bày sự phát triển của giáo dục Pháp – Việt ở Bắc Kỳ từ năm 1930 đến năm 1945. Trong giai đoạn này, các trường Pháp – Việt đã khá ổn định về mặt tổ chức. Tuy nhiên về mặt xã hội, đây lại là giai đoạn có nhiều biến động: cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới cuối những năm 1920, đầu những năm 1930, phong trào cách mạng ở Việt Nam, phong trào mặt trận nhân dân Pháp với những chính sách cởi mở về chính trị - xã hội và đặc biệt, chiến tranh thế giới thứ Hai bùng nổ năm 1939 và tình thế cách mạng giải phóng dân tộc mở ra phong trào cách mạng tiến tới Tổng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Cuộc cách mạng diễn ra trên cả ba mặt trận: chính trị, kinh tế, văn hóa, trong đó có vai trò quan trọng của các giáo viên học sinh trường Pháp – Việt trong thắng lợi của Cách mạng tháng Tám.
Trong cuốn sách này, Tiến sĩ Trần Thị Phương Hoa đã sử dụng nguồn tài liệu khá phong phú, trong đó có những tài liệu chưa từng được khai thác trước đó như: Tài liệu tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I Hà Nội (Phông Toàn quyền Đông Dương - GGI, Thống sứ Bắc Kỳ - RST, Phông Sở Học chính Bắc Kỳ - HCBK, Tòa Đốc lý Hà Nội - MHN, Tòa Sứ Hà Đông - RHD); kết hợp với các công trình đã công bố ở các thư viện Trung ương và địa phương, các báo, tạp chí, chuyên khảo đã được xuất bản ở Việt Nam và nước ngoài.
Với những nội dung tác giả đã trình bày, Giáo dục Pháp – Việt ở Bắc Kỳ (1884-1945) sẽ cung cấp cho bạn đọc thêm nhiều luận cứ và tài liệu để khẳng định vai trò quan trọng của các trí thức được đào tạo từ nhà trường Pháp – Việt không chỉ trong việc tiếp nhận một nền giáo dục hiện đại mà còn trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
GIÁO DỤC PHÁP – VIỆT Ở BẮC KỲ (1884-1945)
Tác giả: Trần Thị Phương Hoa
Khổ sách: 16x24cm
Số trang: 288 trang
👁️
87 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
VNĐ: 148,720
GIÁO DỤC PHÁP – VIỆT Ở BẮC KỲ (1884-1945) Văn hóa và giáo dục Việt Nam đã trải qua hai biến cố quan trọng trong lịch sử: lần đầu tiên vào thế
Giáo Dục Pháp - Việt Ở Bắc Kỳ (1884-1945) Bằng cách kết hợp sử dụng các nguồn tài liệu khá phong phú, trong đó có những tài liệu chưa từng được khai thác trước đó,
GIÁO DỤC PHÁP VIỆT Ở BẮC KỲ 1884-1945 Văn hóa và giáo dục Việt Nam đã trải qua hai biến cố quan trọng trong lịch sử lần đầu tiên vào thế kỷ XI, khi Nho
Giáo dục là một trong những yếu tố quan trọng nhất tác động đến sự chuyển biến về mặt văn hóa – xã hội, chính trị - kinh tế. Về mặt xã hội, các thế
Trường Dạy Nghề Ở Việt Nam Thời Pháp Thuộc (1898-1945) Ở Việt Nam giai đoạn trung đại, nghề nghiệp gắn liền với gia đình, làng xã, địa phương. Mỗi vùng đất có một đặc
Trường Dạy Nghề Ở Việt Nam Thời Pháp Thuộc (1898-1945) Ở Việt Nam giai đoạn trung đại, nghề nghiệp gắn liền với gia đình, làng xã, địa phương. Mỗi vùng đất có một đặc sản
Trường Dạy Nghề Ở Việt Nam Thời Pháp Thuộc (1898-1945) Ở Việt Nam giai đoạn trung đại, nghề nghiệp gắn liền với gia đình, làng xã, địa phương. Mỗi vùng đất có một đặc sản
Trường dạy nghề ở Việt Nam thời Pháp thuộc (1898-1945) ------------ Ở Việt Nam giai đoạn trung đại, nghề nghiệp gắn liền với gia đình, làng xã, địa phương. Mỗi vùng đất có một
Tác giả: Trần Thị Phương Hoa Nhà xuất bản: Thế Giới Số trang: 324 Kích thước: 15.5x24 cm Ngày phát hành: 06-2023 Ở Việt Nam giai đoạn trung đại, nghề nghiệp gắn liền với
Ở Việt Nam giai đoạn trung đại, nghề nghiệp gắn liền với gia đình, làng xã, địa phương. Mỗi vùng đất có một đặc sản nghề riêng mà tiếng tăm vẫn được truyền đến ngày
Ở Việt Nam giai đoạn trung đại, nghề nghiệp gắn liền với gia đình, làng xã, địa phương. Mỗi vùng đất có một đặc sản nghề riêng mà tiếng tăm vẫn được truyền đến ngày
Giới thiệu sách Ở Việt Nam giai đoạn trung đại, nghề nghiệp gắn liền với gia đình, làng xã, địa phương. Mỗi vùng đất có một đặc sản nghề riêng mà tiếng tăm vẫn được
Trường Dạy Nghề Ở Việt Nam Thời Pháp Thuộc 1898-1945 Nhà xuất bản : Nhà Xuất Bản Thế Giới. Công ty phát hành : Nhã Nam. Tác giả : Trần Thị Phương Hoa. Kích thước
Trường Dạy Nghề Ở Việt Nam Thời Pháp Thuộc (1898-1945) Ở Việt Nam giai đoạn trung đại, nghề nghiệp gắn liền với gia đình, làng xã, địa phương. Mỗi vùng đất có một đặc sản
Tác giả Trần Thị Phương Hoa NXB Thế Giới Năm XB 2023 Kích Thước 24 x 15.5 x 1.6 cm Số trang 324 Giá sản phẩm trên đã bao gồm thuế theo luật hiện
Tác giả: Trần Thị Phương Hoa Nhà xuất bản: Thế Giới Số trang: 324 Kích thước: 15.5x24 cm Ngày phát hành: 06-2023 Ở Việt Nam giai đoạn trung đại, nghề nghiệp gắn liền với gia
1. Một tháng ở Nam kỳ NỘI DUNG CHÍNH “Một tháng ở Nam kỳ” – chuyến du ký về những địa danh nổi tiếng ở Nam Kỳ hơn 100 năm trước của Phạm Quỳnh. “Một
1. Một tháng ở Nam kỳ NỘI DUNG CHÍNH “Một tháng ở Nam kỳ” – chuyến du ký về những địa danh nổi tiếng ở Nam Kỳ hơn 100 năm trước của Phạm Quỳnh. “Một
**Quốc kỳ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam** (còn gọi là _"Cờ đỏ sao vàng"_ hay _"Cờ Tổ quốc"_), nguyên gốc là quốc kỳ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được
**Pháp thuộc** là một giai đoạn trong lịch sử Việt Nam kéo dài 61 năm, bắt đầu từ 1884 khi Pháp ép triều đình Huế kí Hòa ước Giáp Thân cho đến 1945 khi Pháp
**Tin Lành** (chữ Anh: _Protestantism in Vietnam_), là một tôn giáo thuộc Cơ Đốc giáo được truyền vào Việt Nam từ đầu thế kỉ XX và hiện là một cộng đồng tôn giáo thiểu số,
**Đế quốc Việt Nam** (chữ Hán: ; , cựu tự thể: , chuyển tự _Etsunan Teikoku,_ tiếng Pháp: Empire du Viêt Nam) là tên gọi chính thức của một Nhà nước Việt Nam thân Nhật
**Nam Kỳ** (chữ Hán: 南圻) là lãnh thổ cực Nam của nước Đại Nam triều Nguyễn, là một trong ba kỳ hợp thành nước Việt Nam. Tên gọi này do vua Minh Mạng đặt ra
**Phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam** nhằm mục tiêu giành lại độc lập cho Việt Nam bắt đầu từ năm 1885 và kết thúc sau Chiến tranh thế giới thứ hai, khi Đảng
**Đế quốc thực dân Pháp** bao gồm các thuộc địa hải ngoại, xứ bảo hộ và lãnh thổ ủy thác nằm dưới sự cai trị của Pháp từ thế kỷ 16 trở đi. Các nhà
**Đảng Dân chủ** (tiếng Anh: _Democratic Party_), cùng với Đảng Cộng hòa, là một trong hai chính đảng lớn nhất tại Hoa Kỳ. Đảng Dân chủ, truy nguyên nguồn gốc của mình đến thời Thomas
**Án lệ Việt Nam** là những lập luận hoặc phán quyết trong bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án Việt Nam về một vụ việc cụ thể được
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
**Bảo Đại** (chữ Hán: , 22 tháng 10 năm 1913 – 31 tháng 7 năm 1997), tên khai sinh là **Nguyễn Phúc (Phước) Vĩnh Thụy** (), là vị hoàng đế thứ 13 và là vị
**Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc** (_Quan hệ Việt-Trung_, ) là mối quan hệ giữa hai nước láng giềng vì có chung biên giới trên bộ và trên biển, hai nước có chung thể
**Trung Kỳ** (chữ Hán: 中圻) là tên gọi do vua Minh Mạng đặt ra cho phần giữa của Việt Nam năm 1834, và là một trong ba vùng của nước này khi đó, cùng với
**Đài Bắc** (, Hán Việt: Đài Bắc thị; đọc theo _IPA: tʰǎipèi_ trong tiếng Phổ thông) là thủ đô của Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) và là thành phố trung tâm của một vùng
nhỏ|[[Hirohito|Thiên hoàng Chiêu Hòa]] là một giai đoạn trong lịch sử Nhật Bản tương ứng với thời gian tại vị của Thiên hoàng Chiêu Hòa, từ ngày 25 tháng 12 năm 1926 đến 7 tháng
**Đàn Nam Giao triều Nguyễn** (tiếng Hán: 阮朝南郊壇) là nơi các vua nhà Nguyễn tổ chức lễ tế trời đất vào mùa xuân hàng năm, thuộc địa phận phường Trường An, quận Thuận Hóa, thành
**Phim cổ trang Việt Nam** là những bộ phim điện ảnh, phim truyền hình và đôi khi cả tác phẩm sân khấu (có thu hình) sử dụng trang phục, tập quán và lễ nghi thời
**Lịch sử báo chí Việt Nam** bắt đầu từ khi người Pháp đặt nền móng thực dân tại Nam Kỳ vào khoảng năm 1862. Lịch sử báo chí Việt Nam phát triển qua nhiều giai
**Công giáo tại Việt Nam** là một bộ phận của Giáo hội Công giáo, dưới sự lãnh đạo tinh thần của các giám mục tại Việt Nam, hiệp thông với giáo hoàng. Với số tỉ
Ở Việt Nam, thể chế **thành phố** được xác định theo nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội hoặc Quốc hội dựa trên một số tiêu chí nhất định như diện tích, dân
**Bắc Ninh** là một tỉnh ở Việt Nam, với vị trí nằm trong Vùng thủ đô Hà Nội, Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ và thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng. Bắc Ninh là
**Friedrich Wilhelm Viktor Abert von Hohenzollern, Wilhelm II** của Phổ và Đức, (27 tháng 1 năm 1859 – 4 tháng 6 năm 1941) là vị Hoàng đế (_Kaiser_) cuối cùng của Đế quốc Đức, đồng
**Hành chính Việt Nam thời Pháp thuộc** là hệ thống hành chính từ trung ương tới địa phương của người Pháp tại Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ từ năm 1884 đến năm 1945.
**Biên giới Việt Nam-Campuchia** là biên giới phân định chủ quyền quốc gia, trên đất liền và trên biển, giữa hai quốc gia láng giềng trên bán đảo Đông Dương thuộc khu vực Đông Nam
**Binh đoàn Lê dương Pháp** (tiếng Pháp: _Légion étrangère,_ tiếng Anh_:_ _French Foreign Legion-FFL_) là một đội quân được tổ chức chặt chẽ, kỷ luật, chuyên môn cao, tinh nhuệ trực thuộc Lục quân Pháp.
**Lãnh thổ Việt Nam qua từng thời kỳ** là sự biến đổi không gian sinh tồn của người Việt. Sự biến đổi này mang tính chất phức tạp, lúc bị mất lãnh thổ về các
**Nguyễn Ngọc Tương** (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh
**Nguyễn Ngọc Bích** (1911–1966) là một kỹ sư, bác sĩ và chính khách người Việt Nam, Đại biểu Quốc hội khóa I Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Ủy viên Ban Thường trực Quốc hội.
**Phục hồi triều đại trong lịch sử Việt Nam** là các phong trào nhằm khôi phục lại một triều đại đã sụp đổ từ các lực lượng chính trị trung thành diễn ra trong lịch
**Hồ Chí Minh** (chữ Nho: ; 19 tháng 5 năm 1890 – 2 tháng 9 năm 1969), tên khai sinh là **Nguyễn Sinh Cung** (chữ Nho: ), còn được gọi phổ biến tại Việt Nam
nhỏ|phải|Thủ tướng Hideki Tojo **Tōjō Hideki** (kanji kiểu cũ: 東條 英機; kanji mới: 東条 英機; Hán Việt: _Đông Điều Anh Cơ_) (30 tháng 12 năm 1884 – 23 tháng 12 năm 1948) là một đại
**Thành phố Đà Lạt** được ghi nhận hình thành từ năm 1893, thời điểm bác sĩ Alexandre Yersin lần đầu tiên đặt chân đến cao nguyên Lâm Viên. Mặc dù vậy, trước thời kỳ này