✨Giang mai
Giang mai (syphilis) là một bệnh lây truyền qua đường tình dục hoặc qua tiếp xúc. Nó do xoắn khuẩn Treponema pallidum (xoắn khuẩn giang mai) gây ra. Đường lây truyền của bệnh giang mai phần lớn là qua đường tình dục, mặc dù có những ca bệnh giang mai lây qua tiếp xúc hoặc sử dụng chung đồ dùng với người bệnh, hoặc do bẩm sinh (lây truyền từ mẹ sang con trong tử cung hoặc khi sinh).
Các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh giang mai rất nhiều, do đó trước khi phương pháp xét nghiệm huyết thanh học ra đời thì việc chẩn đoán chính xác bệnh giang mai rất khó khăn bởi vì nó thường bị nhầm lẫn với các bệnh khác, đặc biệt là trong giai đoạn 3.
Giang mai trước kia là bệnh không chữa được nên người ta rất khiếp sợ nó, nhưng ngày nay có thể điều trị được bằng thuốc kháng sinh như penicillin. Nếu không chữa trị, bệnh giang mai có thể gây biến chứng cho tim, động mạch chủ, não, mắt, và xương, trong một số trường hợp có thể gây tử vong.
Chẩn đoán
Bệnh giang mai phát triển theo bốn giai đoạn chính: giai đoạn 1, giai đoạn 2, giai đoạn ủ bệnh và giai đoạn 3.
Giai đoạn 1
nhỏ|Vết loét hạ cam trên ngón tay. Khác với các [[bệnh lây truyền qua đường tình dục khác, bệnh giang mai không chỉ giới hạn ở những bộ phận sinh dục, mà còn có thể lây truyền qua các tiếp xúc gần khác]] Đây là giai đoạn rất quan trọng để phát hiện và điều trị kịp thời. Khoảng 3-90 ngày sau khi tiếp xúc với nguồn bệnh (trung bình 21 ngày), sẽ xuất hiện tổn thương da ở các điểm tiếp xúc. Vết loét xuất hiện ở những nơi tiếp xúc với xoắn khuẩn giang mai, thường là ở bộ phận sinh dục như: môi lớn, môi bé, âm đạo, cổ tử cung, quy đầu, dương vật hoặc trực tràng., hình ảnh đào ban màu đỏ hồng hoặc hồng tím như cánh hoa đào, ấn vào thì mất, không nổi cao trên mặt da, không bong vảy và tự mất đi. Thường khu trú hai bên mạng sườn, ngực, bụng, chi trên. Đào ban xuất hiện dần trong vòng 1 đến 2 tuần, tồn tại không thay đổi trong vòng 1 -3 tuần sau đó nhạt màu dần rồi mất đi.
Hoặc bệnh có thể làm xuất hiện các mảng sẩn, nốt phỏng nước, vết loét ở da và niêm mạc Các triệu chứng này thường tự biến mất sau 3-6 tuần. Giai đoạn này chia làm hai loại: thời gian tiềm ẩn dưới 1 năm sau giai đoạn 2 (sớm) và thời gian tiềm ẩn kéo dài hơn 1 năm sau giai đoạn 2 (muộn). Nếu bị dị ứng với penicilline thì có thể được sử dụng cetriaxone thay thế. Giang mai không lây qua nhà vệ sinh, các hoạt động hàng ngày, bồn tắm, hay dụng cụ ăn uống hoặc quần áo.
Vắc xin
Tính đến năm 2018, chưa có loại vắc xin nào có hiệu quả phòng chống căn bệnh này.
Quan hệ tình dục
Sử dụng bao cao su làm giảm khả năng lây truyền khi quan hệ tình dục, nhưng nó không thể loại bỏ hoàn toàn nguy cơ lây bệnh. Theo Trung Tâm Kiểm Soát và Phòng Ngừa Bệnh (CDC) tại các tiểu bang Hoa Kỳ, "sử dụng đúng cách và phù hợp bao cao su latex có thể làm giảm nguy cơ lây bệnh giang mai chỉ khi vùng da bị nhiễm bệnh hoặc bộ phận phơi nhiễm tiềm ẩn được bảo vệ". Tuy nhiên, những vùng có giang mai nằm bên ngoài khu vực được bao phủ bởi bao cao su latex vẫn có thể cho phép lây truyền bệnh, vì vậy cần thận trọng ngay cả khi sử dụng bao cao su
Giang mai bẩm sinh
thumb|Chân dung ông J. Kay, bị ảnh hưởng biến dạng bởi thứ mà ngày nay được cho là bệnh giang mai bẩm sinh, vẽ khoảng năm 1820 Bệnh giang mai bẩm sinh ở trẻ sơ sinh có thể được ngăn ngừa bằng cách sàng lọc các bà mẹ trong thời kỳ đầu mang thai và điều trị cho những thai phụ bị nhiễm bệnh Dịch vụ dự phòng Hoa Kỳ (USPSTF) khuyến cáo rằng nên sàng lọc phổ quát cho tất cả phụ nữ có thai, trong khi Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến cáo tất cả phụ nữ nên được xét nghiệm ở lần khám thai đầu tiên của họ và một lần nữa trong ba tháng cuối thai kỳ. Nếu họ dương tính, bạn tình của họ cũng nên được điều trị. Nó vẫn thỉnh thoảng xảy ra ở các nước phát triển, nếu những người có nhiều khả năng mắc bệnh giang mai ít được chăm sóc trong thời kỳ mang thai. Xét nghiệm tại nơi chăm sóc để phát hiện bệnh giang mai có vẻ là đáng tin cậy mặc dù cần có thêm nghiên cứu để đánh giá hiệu quả của nó và cải thiện kết quả ở bà mẹ và trẻ sơ sinh.
Sàng lọc
Trung tâm kiểm soát dịch bệnh (CDC) Mỹ khuyến cáo rằng những người đàn ông có quan hệ tình dục đồng tính luyến ái nên được kiểm tra ít nhất hàng năm. USPSTF cũng khuyến nghị sàng lọc những người có nguy cơ cao.
Bệnh giang mai là một bệnh phải khai báo ở nhiều quốc gia, bao gồm Canada, và Liên minh châu Âu, và Mỹ. Điều này có nghĩa là các cơ sở y tế chăm sóc sức khỏe được yêu cầu thông báo danh tính người mắc bệnh cho cơ quan y tế công cộng, sau đó lý tưởng nhất là cơ quan này sẽ thông báo cho các đối tác tình dục của người đó. Bác sĩ cũng có thể khuyến khích bệnh nhân bảo bạn tình đi khám. Một số chiến lược đã được tạo ra để cải thiện việc theo dõi kiểm tra STI, bao gồm email và tin nhắn văn bản nhắc nhở về các cuộc hẹn khám bệnh.
Dịch tễ học
[[Hình:Syphilis world map - DALY - WHO2004.svg|nhỏ|Chuẩn hóa theo độ tuổi tử vong do bệnh giang mai trên 100.000 người vào năm 2004.
Trong thế giới phát triển, các ca nhiễm bệnh giang mai đã suy giảm cho đến năm 1980 và 1990 do sử dụng rộng rãi các thuốc kháng sinh. Từ năm 2000, tỷ lệ giang mai đã gia tăng tại Mỹ, Anh, Australia và châu Âu chủ yếu ở nam giới quan hệ tình dục với nam giới
Lịch sử
Nguồn gốc
Nguồn gốc của bệnh giang mai không được xác định chính xác.
"Thuyết tiền-Columbus" cho rằng bệnh giang mai đã có mặt tại châu Âu trước khi người châu Âu phát hiện ra châu Mỹ. Một số học giả ở thế kỷ 18 và 19 tin rằng các triệu chứng của giang mai đã được mô tả bởi Hippocrates y thư Hy Lạp cổ ở dạng thứ ba của bệnh hoa liễu. Một số người khác thì nghi ngờ việc phát hiện ra bệnh giang mai vào thời kỳ tiền Columbus, kể cả tại một tu viện dòng Augustinian ở thế kỷ 13-14 ở một cảng phía Đông Bắc nước Anh thuộc thành phố Kingston upon Hull. Lịch sử hàng hải này của thành phố này cho thấy việc xuất hiện liên tục các thủy thủ đến từ những nơi xa xôi được cho là một yếu tố quan trọng trong việc truyền bệnh giang mai. Việc xác định tuổi bằng phóng xạ Carbon xương của những tu sĩ sống trong tu viện này cho thấy có những tổn thương ở xương mà những người ủng hộ thuyết này cho là điển hình của bệnh giang mai hoa liễu, mặc dù điều này gây tranh cãi. Bộ xương ở Pompeii thời kỳ tiền Columbus và ở Metaponto, nước Ý cũng có những dấu hiệu thương tổn tương tự như bị bệnh giang mai bẩm sinh gây ra cũng đã được tìm thấy, mặc dù việc giải thích những bằng chứng này cũng không được đồng thuận. Douglas Owsley, một nhà nhân chủng học thể chất tại Viện Smithsonian, và các ủng hộ viên khác của ý tưởng này phát biểu rằng nhiều trường hợp bị cho là do bệnh phong cùi vào thời trung cổ ở châu Âu thực chất là bệnh giang mai. Mặc dù văn hóa dân gian cho rằng bệnh giang mai chưa được biết ở châu Âu cho đến khi các thủy thủ bị bệnh trở lại xứ này từ các chuyến tàu thời Columbus,...không thể đổ lỗi bệnh giang mai cho bất kì khu vực địa lý hay chủng tộc cụ thể nào. Những bằng chứng cho thấy bệnh này đã tồn tại ở cả hai bán cầu vào thời tiền sử. Nó chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên với những cuộc thám hiểm của Columbus rằng bệnh giang mai trước đây bị coi như là 'bệnh hủi' đã bất ngờ bộc lộ độc lực của nó vào cuối thế kỷ 15.
Lobdell và Owsley viết rằng một nhà văn châu Âu đã ghi nhận một đợt bùng phát "bệnh hủi" trong năm 1303 là một "mô tả rõ ràng bệnh giang mai." Lý thuyết này được hỗ trợ bởi các nghiên cứu di truyền bệnh giang mai hoa liễu và những vi khuẩn liên quan đã tìm thấy một bệnh trung gian giữa bệnh ghẻ cóc và giang mai tại Guyana, Nam Mỹ.
Cuối cùng, sử gia Alfred Crosby cho thấy cả hai lý thuyết có một phần đúng trong một "lý thuyết kết hợp". Crosby nói rằng vi khuẩn gây ra bệnh giang mai thuộc về cùng một họ phát sinh chủng loài như các vi khuẩn gây ra bệnh ghẻ cóc và vài bệnh khác. Mặc dù theo ấn định truyền thống thì quê hương của bệnh ghẻ cóc là từ Châu Phi hạ Sahara, Crosby lưu ý rằng không có bằng chứng rõ ràng của bất kỳ các bệnh có liên quan đã xuất hiện ở châu Âu thời kỳ tiền Columbus, châu Phi, hay châu Á.
Crosby viết, "Không phải là không thể nào mà các sinh vật xoắn khuẩn đến từ châu Mỹ vào những năm 1490... và phát triển thành cả hai dạng giang mai, hoa liễu và không hoa liễu, và bệnh ghẻ cóc." Tuy nhiên, Crosby xem xét có nhiều khả năng có một loài vi khuẩn cổ rất dễ lây đã di chuyển cùng với tổ tiên của con người trên toàn cầu qua eo biển Bering hàng nghìn năm trước mà không chết. Ông đưa ra giả thuyết rằng "các điều kiện sinh thái khác nhau cho ra các loại xoắn khuẩn khác nhau và theo thời gian những vi khuẩn có mối quan hệ chặt chẽ nhưng lại gây ra các bệnh khác nhau."]]
Thời cận đại
Nguồn gốc của bệnh giang mai đang bị tranh cãi. và nó có thể đã được mang từ châu Mỹ sang châu Âu bởi các thủy thủ đoàn trở về từ chuyến đi của Christopher Columbus đến châu Mỹ, hoặc nó có thể đã tồn tại ở châu Âu từ trước đó nhưng không được công nhận cho đến khi Columbus trở về không lâu. Đây lần lượt là các giả thuyết "Colombian" và "tiền Colombia". Giả thuyết Colombia được hỗ trợ tốt hơn bằng những bằng chứng và những phát hiện từ phân tích gien phát sinh loài gợi ý rằng trên thực tế, đó là một căn bệnh phát sinh từ châu Mỹ.
Các ghi chép đầu tiên về sự bùng phát bệnh giang mai ở châu Âu xảy ra vào năm 1494 hoặc 1495 tại Naples, Ý, trong cuộc xâm lược của Pháp (Chiến tranh Ý 1494–98). Năm 1530, cái tên "syphilis" - "bệnh giang mai" (tên một nhân vật) lần đầu tiên được bác sĩ và nhà thơ người Ý Girolamo Fracastoro sử dụng làm tiêu đề cho bài thơ tiếng Latinh của ông mô tả sự tàn phá của căn bệnh này ở Ý. Nó còn được gọi là "Great Pox".
Từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19, bệnh giang mai là một trong những gánh nặng sức khỏe cộng đồng lớn nhất về tỷ lệ hiện mắc, các triệu chứng và khuyết tật mặc dù các hồ sơ về tỷ lệ mắc thực sự của nó thường không được lưu giữ vì tình trạng ghê sợ các bệnh lây truyền qua đường tình dục trong những thế kỷ đó. Vào thời điểm đó, tác nhân gây bệnh vẫn chưa được biết nhưng ai cũng biết rằng nó lây lan qua đường tình dục và cũng thường từ mẹ sang con. Mối liên hệ của nó với tình dục, đặc biệt là ngoại tình và mại dâm, khiến nó trở thành đối tượng của sự sợ hãi và ghê tởm và là một điều cấm kỵ. Mức độ bệnh tật và tử vong của nó trong những thế kỷ đó phản ánh rằng thời đó y khoa không có sự hiểu biết đầy đủ về cơ chế bệnh sinh của nó và không có phương pháp điều trị thực sự hiệu quả. Sự nguy hiểm của nó không phải do bệnh trở nặng hoặc tử vong sớm trong quá trình của bệnh, mà là do tác động khủng khiếp của nó nhiều thập kỷ sau khi nhiễm bệnh, khi nó tiến triển thành bệnh giang mai thần kinh với các nốt sần ở lưng. Thời đó, các hợp chất và phân lập từ thủy ngân thường được sử dụng trong các phương pháp điều trị, thường gây hậu quả còn nặng hơn chính căn bệnh. Phương pháp điều trị hiệu quả đầu tiên đối với bệnh giang mai là arsphenamine, được phát hiện bởi Sahachiro Hata vào năm 1909, trong một cuộc khảo sát hàng trăm hợp chất arsenic hữu cơ mới được tổng hợp do Paul Ehrlich dẫn đầu. Nó được sản xuất và bán trên thị trường từ năm 1910 với tên thương mại là Salvarsan bởi Hoechst AG. Đây là hợp chất organoarsenic đầu tiên sử dụng trong trị liệu hóa học hiện đại.
Trong suốt thế kỷ 20, khi cả vi sinh vật học và dược học đã phát triển vượt bậc, bệnh giang mai, giống như nhiều bệnh truyền nhiễm khác, trở thành một gánh nặng có thể kiểm soát được hơn là một bí ẩn đáng sợ, ít nhất là ở các nước phát triển với những người có đủ khả năng chi trả để được chẩn đoán kịp thời và điều trị. Penicillin được phát hiện vào năm 1928, và hiệu quả của việc điều trị bằng penicillin đã được xác nhận trong các thử nghiệm vào năm 1943,
Nhiều nhân vật lịch sử nổi tiếng, bao gồm Franz Schubert, Arthur Schopenhauer, Édouard Manet, và Guy de Maupassant được tin là đã mắc bệnh này. Friedrich Nietzsche từ lâu được cho là đã phát điên do bệnh giang mai giai đoạn ba, nhưng chẩn đoán đó gần đây đã bị nghi ngờ.
Trong nghệ thuật và văn học
thumb|Một minh họa y học ban đầu về những người bị bệnh giang mai, Vienna, 1498 Các mô tả sớm nhất được biết đến của một người mắc bệnh giang mai là "Syphilitic Man" của Albrecht Dürer, một bản khắc gỗ cho là mô tả một Landsknecht, một lính đánh thuê người Bắc Âu Huyền thoại về femme fatale hay "phụ nữ đầu độc" của thế kỷ 19 được cho là một phần bắt nguồn từ sự tàn phá của bệnh giang mai, với những ví dụ kinh điển trong văn học bao gồm "La Belle Dame sans Merci" của John Keats.
Nghệ sĩ Stradanus đã làm một bản in có tên "Chuẩn bị và sử dụng Guayaco để điều trị bệnh giang mai", mô tả cảnh một người đàn ông giàu có được điều trị bệnh giang mai bằng loại cây nhiệt đới guaiacum vào khoảng năm 1590.
Thí nghiệm Tuskegee và Guatemala
thumb|left|Áp phích tuyên truyền chống giang mai, năm 1940|alt= "Nghiên cứu Tuskegee về bệnh giang mai không được điều trị ở nam giới da đen" là một nghiên cứu lâm sàng khét tiếng, phi đạo đức và phân biệt chủng tộc được thực hiện từ năm 1932 đến năm 1972 bởi Dịch vụ Y tế Công cộng Hoa Kỳ. Trong khi mục đích của nghiên cứu này là quan sát sự tiến triển tự nhiên của bệnh giang mai không được điều trị; những người đàn ông Mỹ gốc Phi trong cuộc thí nghiệm bị chính phủ Hoa Kỳ nói dối là họ đang được điều trị miễn phí chứng "máu xấu".
Dịch vụ Y tế Công cộng Hoa Kỳ bắt đầu thực hiện nghiên cứu này vào năm 1932 với sự hợp tác của Đại học Tuskegee, một trường cao đẳng dành cho người da đen ở Alabama. Các nhà nghiên cứu đã thu nhận 600 người Mỹ gốc Phi nghèo từ hạt Macon, bang Alabama vào nghiên cứu. Trong số những người đàn ông này, 399 người đã mắc bệnh giang mai trước khi nghiên cứu bắt đầu, và 201 không mắc bệnh., thông tin chẩn đoán và báo cáo chính xác kết quả xét nghiệm. thumb|Chuẩn bị và sử dụng Guayaco để chữa giang mai, tác giả [[Stradanus, năm 1590]]
Các thí nghiệm tương tự đã được thực hiện ở Guatemala từ năm 1946 đến năm 1948. Nó được thực hiện dưới thời chính quyền của Tổng thống Mỹ Harry S. Truman và Tổng thống Guatemala Juan José Arévalo với sự hợp tác của một số bộ và quan chức y tế Guatemala. Các bác sĩ đã lây nhiễm bệnh cho binh lính, gái mại dâm, tù nhân và bệnh nhân tâm thần mắc bệnh giang mai và các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác mà không có sự đồng ý của đối tượng và điều trị hầu hết các đối tượng bằng thuốc kháng sinh. Thí nghiệm khiến ít nhất 83 người chết. Vào tháng 10 năm 2010, Mỹ đã chính thức xin lỗi Guatemala vì những vi phạm đạo đức đã diễn ra. Ngoại trưởng Hillary Clinton và Bộ trưởng Y tế và Dịch vụ Nhân sinh Kathleen Sebelius tuyên bố "Mặc dù những sự kiện này đã xảy ra hơn 64 năm trước, nhưng chúng tôi rất phẫn nộ vì nghiên cứu đáng trách như vậy có thể đã xảy ra dưới chiêu bài y tế công cộng. Chúng tôi vô cùng lấy làm tiếc vì điều đó đã xảy ra, và chúng tôi xin lỗi tất cả những cá nhân đã bị ảnh hưởng bởi các hoạt động nghiên cứu ghê tởm như vậy." Các thí nghiệm được dẫn dắt bởi bác sĩ John Charles Cutler, người cũng tham gia vào giai đoạn cuối của thí nghiệm bệnh giang mai Tuskegee
Tên gọi
Lần đầu tiên nó được người Pháp gọi là "grande verole" hay "bệnh đậu lớn", để phân biệt nó với bệnh đậu mùa bởi vì trong giai đoạn đầu của bệnh, các ban nước lớn phát ra tương tự như bệnh đậu mùa. Các tên lịch sử khác bao gồm "button scurvy", sibbens, frenga và dichuchwa, trong số những tên khác.
Vì nó là một căn bệnh đáng hổ thẹn, căn bệnh này đã được gọi ở một số quốc gia bằng việc gán tên của quốc gia láng giềng có nhiều xung đột với họ. Người Anh, Đức và Ý gọi nó là "bệnh Pháp", trong khi người Pháp gọi nó là "bệnh Neapolitan". Người Hà Lan gọi nó là "bệnh Tây Ban Nha" trong Cuộc nổi dậy của Hà Lan chống lại Tây Ban Nha. Đối với người Thổ Nhĩ Kỳ, nó được gọi là "căn bệnh Cơ đốc giáo" hay "bệnh Frank" (frengi), trong khi ở Ấn Độ, người theo đạo Hindu và đạo Hồi đặt tên căn bệnh này theo tên nhau.