✨Giả Tự Đạo
Giả Tự Đạo (chữ Hán: 賈似道, 1213 - 1275), tên tự là Sư Hiến (師憲), nguyên quán ở Thai châu, là tể tướng, ngoại thích nhà Tống trong lịch sử Trung Quốc, người đã góp một phần lớn vào sự diệt vong của Nam Tống.
Thân thế và thuở thiếu thời
Giả Tự Đạo là con trai của chế trí sứ Hoài Đông Giả Thiệp, mẫu thân là Hồ thị. Hồ thị vốn không phải là vợ của Giả Thiệp, mà lấy một người khác. Một hôm ra sông giật áo thì thấy quan quân đang qua sông, trong đó có Giả Thiệp. Hai người vừa gặp đã yêu, sau đó thì Hồ thị sinh ra Tự Đạo. Về sau Giả Thiệp mới bỏ tiền mua Hồ thị về, do vậy đứa con sinh ra mới được mang họ Giả.
Giả Tự Đạo từ nhỏ đã là kẻ vô lại, thích ăn chơi, cờ bạc rượu chè kĩ nữ, không gì là chưa động đến. Bấy giờ có người quen là Từ Vị Lễ đến nhà, nhìn thấy Tự Đạo thì rất kinh ngạc, nói với Hồ thị rằng về sau rủi lắm thì Tự Đạo cũng làm được thái thú. Lại có một thầy tướng số nọ, gặp lúc Tự Đạo trượt chân ngả lộ ra đôi bàn chân, mới than rằng Tự Đạo có tướng cực quý, nhưng lòng bàn chân có hình con khỉ, e sau này có lúc phải đi xa vạn dặm.
Ban đầu Tự Đạo theo lệ phụ ấm được bổ nhiệm làm Gia Hưng tư thương. Tự Đạo vẫn không bỏ thói cũ, suốt ngày lêu lổng, thường cùng bọn kĩ nữ dạo chơi ở Tây Hồ. Một hôm Lý Tông nhân lên lầu xem phong cảnh thì bắt gặp cảnh ấy, bèn nói :Chắc đó là tên Giả Tự Đạo chứng không ai.
Rồi sai Sử Nham Chi răn đe Tự Đạo. Nham Chi vốn sợ thế Giả quý phi, nên mới nói rằng :Tự Đạo chẳng qua chỉ là chút nông nổi tuổi thiếu niên, nhưng có kì tài đáng được dùng.
Lý Tông tin là thật, từ đó có ý dùng Tự Đạo. Sau đó Tự Đạo được bổ nhiệm làm tri Lễ châu.
Thăng tiến nhờ chị
Năm nguyên niên Thuần Hựu (1241) được phong tổng lĩnh Hồ Quảng, lúc đó mới chơi tới 30 tuổi.
Năm thứ hai Bảo Hựu (1254), phong Đồng tri Xu mật viện sự, Lâm Hải quận Khai quốc công. Từ đó quyền thế của Tự Đạo bắt đầu lên cao. Năm thứ 4 (1256), được phong làm Tham tri chính sự. Năm 1257, gia Tri Xu mật viện sự. Năm 1258, cải làm tuyên phủ sứ Lưỡng Hoài là Vương Kiên nhiều lần đánh bại quân Mông, khiến Mông Kha tức quá thành bệnh rồi chết ở Điếu Ngư. Tình hình Tây Thục tạm yên. Trong khi ở Lưỡng Hoài thì quân Mông Cổ thắng thế, Hoàng đệ Hốt Tất Liệt đã áp sát Đại Giang. Hoàng đệ sai Đổng Văn Bính ra thống lĩnh quân cảm tử vượt sông, đánh cho quân Tống tan tác. Quân Mông Cổ đánh vào Ngạc châu, phá Lâm Giang quân và Đoan châu. Giả Tự Đạo khi đó đóng ở Hán Dương để chi viện cho Ngạc châu
Lúc này quân Mông vây Ngạc châu rất chặt, tướng giữ thành Trương Thắng tự sát. Tự Đạo sai Lã Văn Đức, Hướng Sĩ Bích, Tào Thế Hùng đến cứu viện, đề cử Tự Đạo ra đốc chiến. Bấy giờ có tướng Cao Đạt không phục Tự Đạo, Tự Đạo ngầm mang hận trong lòng. Bỗng khi đó có lệnh cho Tự Đạo phải dời lên Hoàng châu ở phía bắc. Ngô Tiềm mật tâu :Thần không có tài nhìn xa, nhưng biết Trung vương không phải là phúc của bệ hạ.
Lý Tông rất giận và Giả Tự Đạo rất mừng. Tháng 4 năm 1260, Tự Đạo bèn gièm pha cho Lý Tông bãi chức Ngô Tiềm; hai tháng sau lập Trung vương làm thái tử. Tự Đạo vẫn chưa hả, tìm cách hại Ngô Tiềm cho kì được mới thôi. Nên nhân lúc Ngô Tiềm bị đày đến Tuần châu, Tự Đạo sai Lưu Tông Thân đến để thừa cơ hạ độc. Cuối năm 1262, Tông Thân xông vào nơi ở của Ngô Tiềm ép ông uống rượu độc. Ngô Thừa tướng qua đời không ai không thương xót. Giả Tự Đạo sợ mang tiếng nên giết Lưu Tông Thân và mai táng cho Ngô Tiềm. Tháng 4 ÂL, Tự Đạo được tấn phong Thái sư Ngụy quốc công; Độ Tông gọi Tự Đạo là sư thần, triều thần gọi là Châu công, đặc cách mỗi lần vào triều được ngồi dâng tấu, khi đối đáp không phải xưng tên.
Từ sau khi an táng Lý Tông xong xuôi, Tự Đạo xin từ quan về đất Việt, nhưng lại ngầm dặn Lã Văn Đức phao tin đồn rằng quân Mông Cổ đã đánh tới Hạ Đài; cả triều đình nhà Tống kinh hoàng. Độ Tông viết chiếu triệu, Tự Đạo làm mình làm mẩy không chịu tới; phải đến khi Tạ thái hậu có chiếu tay đòi gấp, Tự Đạo mới vào triều. Khi Tự Đạo tới, Độ Tông bái ông làm Thái sư, Tiết độ sứ Trấn Đông; Tự Đạo giận nói chức tiết độ sứ để bọn thô bỉ làm đi; rồi lại dùng dằng xin từ quan. Độ Tông nói mãi không được, đành phải quỳ lạy xin Tự Đạo ở lại.
Làm ngơ nhìn đất mất
Ở miền bắc, Hốt Tất Liệt sau 4 năm chiến tranh đã đánh bại A Lý Bất Ca, trở thành người cai trị của Mông Cổ. Năm 1271, Người đổi tên nước là Đại Nguyên, từ đó quân Mông Cổ gọi là quân Nguyên. Ổn định chính sự, Nguyên Thế Tổ tính đến việc nam chinh, lệnh Lưu Chỉnh, A Truật đánh lấy Tương Dương (1267). Tướng giữ Tương Dương là Lã Văn Hoán cấp báo với anh là Lã Văn Đức nhưng Văn Đức lại coi như không có chuyện gì. Quân Mông Cổ bao vây Tương Dương, Lã Văn Hoán kiên trì kháng cự suốt 5 năm. Bấy giờ tại Lâm An, Giả Tự Đạo biết Tương Phàn nguy cấp mà không có hành động gì, chỉ cùng lũ tì thiếp ở Cát Lĩnh ngày đêm yến ẩm hoan lạc. Tự Đạo ghét ai đến làm phiền, bèn để sẵn một lò lửa, thấy ai khi không báo trước mà tới thì ném vào lửa. Một hôm có người anh của một tì thiếp đến thăm mà không xưng tên, người hầu bắt lấy ném luôn vào lò lửa. Người này sợ quá kêu to tên Tự Đạo, Tự Đạo mới nhận ra, nhưng khi đó người này đã bị bỏng nặng khó cứu được. Phạm Văn Hổ sợ Đình Chi giành mất công, nên xin Tự Đạo cho mình đi cứu Tương Dương. Tự Đạo bằng lòng, để quân của Văn Hổ thuộc Khu phủ tiết chế, tách khỏi sự chỉ huy của Đình Chi. Nhưng Văn Hổ cứ chần chừ không tiến quân mà ngày đêm yến ẩm, đá cầu với lũ kĩ thiếp, còn bảo là chưa nhận được ý chỉ. Đến đầu năm 1271, khi Tự Đạo đích thân thúc giục thì Văn Hổ mới tiến quân, nhưng vừa ra trận đã bị quân Nguyên đánh bại ở cửa Chí Lộc, Văn Hổ co giò bỏ chạy.
Giang Vạn Lý lúc này lại triều Tống đình cất nhắc lên chức Tả thừa tướng. Năm 1270, vì Vạn Lý nhiều lần xin cứu Tương Dương làm cho Giả Tự Đạo bực mình, nên Tự Đạo bãi chức của Vạn Lý. Cuối năm 1272, Hữu thừa tướng Mã Quang Tổ do chán ngán Giả Tự Đạo chuyên quyền nên xin từ chức. Bấy giờ Nguyên Thế Tổ lấy cớ Giả Tự Đạo bội ước, cử Sử Thiên Trạch và Bá Nhan thống chế các lộ binh mã gồm 20 vạn quân, có hàng tướng Lưu Chỉnh và Lã Văn Hoán dẫn đường; tiến xuống phía nam. Về sau Sử Thiên Trạch bị bệnh phải quay về miến bắc, toàn bộ đại quân Nguyên do Bá Nhan chỉ huy. Tháng 9 ÂL, Bá Nhan chia quân ba đạo vượt sông. Tướng Trương Thế Kiệt đóng quân ở Dĩnh ra sức chống cự, quân Nguyên bèn bỏ qua Dĩnh châu, tiếp tục xuôi dòng Trường Giang đánh và chiếm được Hoàng gia Loan Bảo. Trong khi đó thì Sách Đa dẫn một đao quân từ Tảo Dương vào Không Sơn, Trạch Chiêu Thảo từ núi Lão Nha đánh Kinh Nam. Triều Tống bại hết trận này đến trận khác, sĩ khí sút kém hẳn.
Tháng 11, Tự Đạo tiến cử Vương Dược, Chương Giám làm Tả, Hữu thừa tướng. Lúc này thì quân Nguyên chiếm Sa Dương, Tân Thành, Vân An, La Củng, Cao Dương và Phúc châu. Chỉ có chế trí sứ Hoài Tây Hạ Quỳ, Đô Thống chế Vương Đạt và tuyên phủ sứ Kinh Hồ Chu Tự Tôn dùng quân du kích đánh địch mới tạm ngăn được bước tiến của quân Nguyên. Nhưng vận số của triều Tống đã hết, không thể chống giữ được bao lâu. Tháng 12 ÂL, Bá Nhan đóng 10 vạn quân kị ở Giang Bắc, lại sai A Lý Hải Nhai cùng Trương Hoằng Phạm tiến đánh Dương La Bảo, giết Vương Đạt, sau đó A Thuật dẫn đại quân vượt sông, Hạ Quý phải bỏ chạy. Bá Nhan chuẩn bị lấy Kinh Hồ còn mình và A Thuật đưa quân thẳng tiến vào Lâm An. Cả thành Lâm An chấn động.
Lúc đó ba thái học sinh cùng quần thần liên danh đề nghị sư tướng đốc quân. Đến đầu năm 1275, quân Nguyên chiếm Hoàng châu, ché trí sứ Duyện Giang Trần Dịch ra hàng. Tự Đạo triệu Lã Sư Quỳ làm tham tán đô đốc phủ quân sự nhưng Sư Quỳ không nhận và dẫn cả bọn họ Lã ra hàng. Lúc này nghe tin Lưu Chỉnh chết, Tự Đạo nghĩ quân Nguyên không còn người dẫn đường bèn ra quân đánh giặc, lệnh tập trung 13 vạn tinh binh cùng lên đường. Tự Đạo sai người liên hệ với Lã Sư Quỳ bàn việc nghị hòa nhưng không được. Tự Đạo lại sai Tống Kinh đến trại quân Nguyên đề nghị xưng thần, triều cống như hòa ước năm Khai Khánh mà chính Tự Đạo nói mà không làm. Bá Nhan không nghe.
Hạ Quý đem quân tới và đưa cho Tự Đạo một quyền sách, trong đó ghi rằng vận mệnh triều Tống chỉ có 320 năm. Tự Đạo nấn ná không đi. Tháng 5 ÂL, Tả Thừa tướng Vương Dược dâng sớ kể tội Tự Đạo bất trung, bất hiếu. Tháng 7 năm 1275, Hoàng Dung và Vương Ứng Lân xin đày Tự Đạo ra Lân châu, không theo. Ông Hợp lại nói, phủ Kiến Ninh là quê của Chu Hi, để Tự Đạo ra đó thì không xứng, Vương Ứng Long và Hoàng Dung cũng dâng sớ nhưng không được. Cuối cùng thị ngự sử Trần Văn Long, Trần Cảnh Hành, Từ Trực Phương, Tôn Vanh Tẩu và giám sat ngự sử Du Chiết cùng liên danh tấu, bèn tịch biên gia sản của Tự Đạo, giáng Đoàn luyện sứ Cao châu, an trí ở Tuần châu rất oán hận Tự Đạo, muốn tìm một người áp giải có thể giết Tự Đạo trên đường đi. Có huyện úy Trịnh Hổ Thần tình nguyện làm việc đó. Lúc Tự Đạo lên đường có đem theo 10 tì thiếp, Hổ Thần đuổi hết đi và tống Tự Đạo lên xe. Cho vứt hết mui xe mặc dù khi đó vào thu trời đã lạnh. Lại lệnh cho xa phu xướng những bài ca của Hàng châu, nhiều lần còn réo tên Tự Đạo lên mà chửi. Đến một ngôi chùa nọ, Hổ Thần thấy trên tường có ghi mấy câu thơ của Ngô Tiềm khi trước viết lúc bị đày đến đây, liền hỏi :Giả đoàn luyện à, Ngô Thừa tướng cũng từng đến chỗ này sao?
Tự Đạo thẹn không nói gì. Lúc đó triều đình lại có người dâng sớ nói gia súc trong nhà Tự Đạo được đeo ngự vật, xin chém Tự Đạo; thái hậu sai sứ đến hỏi. Sứ giả chưa tới nơi thì vào một ngày tháng 8 ÂL, khi Tự Đạo tới gần am Mộc Miên, Chương châu, Hổ Thần chỉ dòng nước nói Tự Đạo có thể nhảy xuống được đấy, Tự Đạo không nghe, bảo :Thái hoàng từng hứa sẽ không giết ta. Muốn ta chết thì phải có chiếu chỉ.
Hổ Thần nói :Ta vì thiên hạ giết Tự Đạo, có chết cũng không hối hận.
Lập tức giết Tự Đạo. Năm đó Tự Đạo 63 tuổi, nắm quyền 17 năm. Bốn năm sau đó thì triều Tống cũng bị diệt vong.