✨Ghế boong tàu

Ghế boong tàu

thumb|Ghế boong bằng khung gỗ và vải truyền thống thumb|Ghế boong ở [[Hyde Park, London|Hyde Park, London]] nhỏ|phải|Hành khách ngả lưng trên ghế boong tàu Đức thumb|Mọi người thư giãn trên ghế gấp ở River Spree gần Berlin Hauptbahnhof, [[Berlin 2007]] Ghế boong/ sàn tàu, ghế deck (tiếng Anh: deckchair hoặc deck chair) là một loại ghế gấp với khung bằng gỗ hoặc vật liệu cứng, có thể gấp lại cho gọn mang tính di động. thân ghế làm bằng vải hay nhựa vinyl giăng trên khung tạo thành phần tựa lưng và chỗ ngồi. Tiếng Việt gọi là ghế bố vì xưa dùng vải bố căng trên khung. Nó là phuơng tiện để nghỉ ngời lúc nhàn rỗi, ban đầu là trên boong của một tàu hàng hải hoặc tàu du lịch. Nó có thể gấp lại cho gọn rồi chồng lên nhau nên dễ dàng vận chuyển, tuy vẫn còn một số kiểu dáng nổi tiếng là khó gấp và mở ra. Các phiên bản khác nhau có thể có một chỗ ngồi mở rộng bao gồm chỗ để gác chân, có thể điều chỉnh độ cao để người dùng có thể tùy ý sửa đổi vị thế ghế từ tư thế ngồi đến nằm; và cũng có thể có chỗ để tay.

Ghế boong được dùng ngoài trời làm chỗ ngồi có tính cách tạm thời ở nơi để thư giãn ngoài trời khác như bãi biển, công viên nên còn gọi là ghế bãi biển, ghế ngoài trời.

Nguồn gốc lịch sử

Ở Bắc Âu, người ta đã tìm thấy dấu tích của những chiếc ghế gấp có niên đại từ thời đại đồ đồng. Ghế có thể gấp lại cũng được sử dụng ở Ai Cập cổ đại, Hy Lạp và La Mã. Tại Hoa Kỳ, bằng sáng chế ban đầu cho ghế gấp là của John Cham vào năm 1855. Ghế gấp bằng gỗ với mặt ngồi và lưng bằng vải dệt (woven) hoặc gậy (cane), loại hiện được gọi là "ghế hơi nước" (steamer chair) ở Anh, bắt đầu được sử dụng trên các boong tàu viễn dương từ khoảng những năm 1860, và được biết đến vào thời điểm đó là "ghế boong". Không rõ liệu chúng được sản xuất lần đầu ở Mỹ hay Anh. Tại Anh, John Thomas Moore (1864-1929) đã nhận bằng sáng chế cho những chiếc ghế gấp có thể điều chỉnh và di động vào năm 1886, và bắt đầu sản xuất chúng ở Macclesfield. Moore đã sản xuất hai loại: Waverley, được mô tả là "chiếc ghế chơi quần vợt trên tàu hoặc bãi cỏ tốt nhất", và Hygiene, là một chiếc ghế bập bênh "có giá trị cho những người chậm chạp và bị táo bón".

Phiên bản ban đầu của ghế boong được làm bằng hai khung gỗ hình chữ nhật gắn với nhau, với hình chữ nhật thứ ba để giữ nó thẳng đứng. Một miếng vải bạt hình chữ nhật, loại được sử dụng trên võng, được gắn vào hai trong số các hình chữ nhật bằng gỗ để làm chỗ ngồi và hỗ trợ. Việc sử dụng một dải vải rộng duy nhất, ban đầu có màu xanh ô liu nhưng sau này thường có các sọc màu sáng, đã được ghi nhận cho một nhà phát minh người Anh tên là Atkins vào cuối thế kỷ 19, Ghế boong cổ điển chỉ có thể được khóa ở một vị trí. Sau đó, các dải gỗ đi về phía sau được kéo dài ra và được trang bị các giá đỡ để cung cấp nhiều tư thế ngồi. Phần để chân có thể tháo rời cũng có thể tăng thêm sự thoải mái cho người sử dụng.

Ghế boong trở nên phổ biến rộng rãi vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Trong thời kỳ hoàng kim của du lịch bằng tàu viễn dương, những chiếc ghế gấp trên boong tàu đôi khi được dành cho những hành khách cụ thể mà thủy thủ đoàn sẽ gắn thẻ tên bằng bìa cứng vào lưng ghế đan bằng liễu gai. Một thẻ như vậy có thể nhìn thấy trên một chiếc ghế boong trống gần trung tâm trong một bức ảnh nổi tiếng năm 1912 cho thấy những người sống sót sau khi được cứu hộ trong vụ đắm tàu RMS Titanic và trong khi họ nghỉ ngơi trên boong RMS Carpathia. Hệ thống tương tự đã được sử dụng trên tàu Carpathia hai năm sau đó; thẻ đặt chỗ được hiển thị trên ghế boong trống ở phía dưới bên phải của một bức ảnh năm 1914. Những chiếc ghế boong được hiển thị trên một số bức ảnh đó thuộc loại "ghế hơi nước" vững chắc hơn, thay vì ghế bọc vải di động. Tàu Titanic chở 600 chiếc ghế gỗ như vậy;

Hình ảnh

File:Cliffs and Deckchairs on Beer Beach, August - geograph.org.uk - 218533.jpg|Ghế boong trên bãi biển tại Beer, Devon, Anh, gồm cái đã mở và đã gấp Image:Deck chair red.JPG|Ghế boong với chỗ tựa tay và đệm tựa đầu File:Rms carpathia passengers on deck 1914 blasius zeiser osa group of 1914.JPG|Hình ảnh trên boong của các hành khách trên RMS Carpathia trong chuyến công du nước ngoài năm 1914 do Cha Blasius Zeiser dẫn đầu File:Sheridanp268crop01.jpg|Tướng quân Philip Sheridan của Liên minh Nội chiến Hoa Kỳ trong chiến dịch

Sunlounger

thumb|right|Ghế dài tắm nắng bên hồ bơi Một chiếc ghế dài tắm nắng giống như một chiếc ghế boong và giống chiếc giường về bản chất. Mặt sau có thể nghiêng lên để người dùng có thể ngồi lên và đọc sách, hoặc có thể ngả xuống một mặt phẳng để có thể ngủ ở tư thế nằm ngang.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|Ghế boong bằng khung gỗ và vải truyền thống thumb|Ghế boong ở [[Hyde Park, London|Hyde Park, London]] nhỏ|phải|Hành khách ngả lưng trên ghế boong tàu Đức thumb|Mọi người thư giãn trên ghế gấp ở River
**_I-177_** (nguyên là **_tàu ngầm số 155_**, rồi **_I-77_** cho đến ngày 20 tháng 5, 1942) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc
**_I-53_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C3 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm
**_I-3_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
**_I-7_** là một tàu ngầm tuần dương phân lớp bao gồm hai chiếc có khả năng mang máy bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó cùng với tàu chị em _I-8_ là những
Thử nghiệm ghế phóng của chiếc [[F-15 Eagle không quân Hoa Kỳ với một hình nộm.]] Đối với đa số máy bay quân sự, **ghế phóng** là một hệ thống được thiết kế để cứu
**_I-47_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C2 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-56_**, sau đổi tên thành **_I-156_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-18_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
**_I-24_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm thứ hai của
**_I-121_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 48_** và mang tên **_I-21_** từ năm 1924 đến năm 1938 là một tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu
**_I-35_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-68_**, sau đổi tên thành **_I-168_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-184_** (nguyên mang tên **_I-84_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã hoạt động trong Chiến
**_I-123_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 50_** và mang tên **_I-23_** từ năm 1927 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-122_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 49_** và mang tên **_I-22_** từ năm 1926 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_U-35_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1936, nó đã thực
**_U-77_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_I-75_**, sau đổi tên thành **_I-175_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_U-407_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó dành hầu
**_U-251_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-134_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-61_** là một tàu ngầm duyên hải thuộc phân lớp Type IIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo vào đầu Chiến tranh Thế giới thứ hai. Những tàu ngầm Type II vốn quá
**_U-269_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**_U-348_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó đã thực
**_I-6_** là một tàu ngầm tuần dương, là chiếc duy nhất thuộc phân lớp của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và có khả năng mang máy bay. Nhập biên chế năm 1935, _I-6_ đã
là bộ phim hoạt hình chính thứ 14 của bộ truyện tranh Thám tử lừng danh Conan với nhân vật chính là Kudo Shinichi. Bộ phim ra mắt vào ngày 17 tháng 4 năm 2010
**_I-5_** là chiếc tàu ngầm mang máy bay đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản và đã hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Là chiếc duy nhất trong phân lớp
**Tàu khu trục lớp Atago** (tiếng Nhật: あたご型護衛艦) là một lớp tàu khu trục tên lửa (**DDG**) được trang bị hệ thống chiến đấu Aegis (AWS) thuộc biên chế của Lực lượng Phòng vệ trên
**_U-65_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
**_I-4_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
thumb|right|Ghế dài tắm nắng bên hồ bơi **Ghế dài tắm nắng** là một thiết bị đồ dùng giống như một chiếc ghế, thường được đặt trong hiên nhà, vườn hoặc sàn ở hồ bơi, hoặc
Tàu **_Mary Celeste_** (hay _Marie Céleste_ như được đề cập đến bởi Sir Arthur Conan Doyle và những người khác sau ông) là một thương thuyền hai cột buồm của Mỹ nổi tiếng về việc
**_Titanic_** là một bộ phim điện ảnh Mỹ thuộc thể loại thảm họa – lãng mạn – sử thi – chính kịch ra mắt vào năm 1997 do James Cameron làm đạo diễn, viết kịch
**USS _Archerfish_ (SS/AGSS-311)** là một tàu ngầm lớp _Balao_ của Hải quân Hoa Kỳ, và là con tàu đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo loài cá mang rổ. _Archerfish_ nổi
**USS _Bugara_ (SS-331)** là một từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái
phải|nhỏ|Boong-ke tại Albania Trong quân sự, **boong ke** (xuất phát từ tiếng Đức _bunker_ nhưng được phiên âm từ cách đọc của người Pháp) là công sự để ẩn nấp và chiến đấu, được bố
**USS _Pennsylvania_ (BB-38)** là một thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó thuộc thế hệ các thiết giáp hạm "siêu-dreadnought"; và là chiếc tàu chiến thứ
**USS _Augusta_ (CL-31/CA-31)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc cuối cùng của lớp _Northampton_, và là chiếc tàu chiến thứ tư của Hải quân Mỹ được đặt
**Dassault Rafale** () là một máy bay chiến đấu đa nhiệm vụ cánh tam giác hai động cơ thế hệ thứ tư của Pháp, được thiết kế và chế tạo bởi Dassault Aviation. Dassault đã
**USS _Van Valkenburgh_ (DD-656)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân
**USS _John F. Kennedy_ (CVA-67/CV-67)** là một siêu hàng không mẫu hạm, chiếc duy nhất trong phân lớp của nó, vốn là một biến thể của lớp tàu sân bay _Kitty Hawk_, được Hải quân
thumb|right|Con tàu _Beagle_ neo đậu tại [[Tierra del Fuego vào năm 1832; tác phẩm của phác họa gia Conrad Martens.]] **Hành trình thứ hai của tàu HMS _Beagle**_ (ngày 27 tháng 12 năm 1831 -
Phú Quốc được mệnh danh là thiên đường nghỉ dưỡng của Việt Nam, nơi sở hữu những bài biển hoang sơ tuyệt đẹp, những rạn san hô rực rỡ và nền ẩm thực phong phú,
Phú Quốc được mệnh danh là thiên đường nghỉ dưỡng của Việt Nam, nơi sở hữu những bài biển hoang sơ tuyệt đẹp, những rạn san hô rực rỡ và nền ẩm thực phong phú,
**Apollo 8** (21–27 tháng 12 năm 1968) là tàu vũ trụ có người lái đầu tiên thoát khỏi phạm vi ảnh hưởng của lực hấp dẫn Trái Đất và là chuyến bay có phi hành
**USS _Argonaut_ (SS-475)** là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được
**USS _Trever_ (DD-339/DMS-16/AG-110)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân
**USS _Spearfish_ (SS-190)** là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái
**Apollo 4** (9 tháng 11 năm 1967), còn được biết đến với tên gọi **SA-501**, là chuyến bay thử nghiệm không người lái đầu tiên của Saturn V, tên lửa đẩy mà sau này sẽ