Lớp thiết giáp hạm _Fusō_ (tiếng Nhật: 扶桑, một cái tên cũ của Nhật Bản), là một lớp thiết giáp hạm bao gồm hai chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, được thiết kế và chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Chúng được cải biến đáng kể trong những năm giữa hai cuộc thế chiến; vào giai đoạn cuối của Chiến tranh Thế giới thứ hai, cả hai chiếc đều bị đánh chìm vào năm 1944 trong trận chiến eo biển Surigao
Thiết kế
nhỏ|Thiết giáp hạm Fusō của Hải quân Đế quốc Nhật Bản đang trong quá trình thử nghiệm sau tái thiết.
Các tháp pháo chính 355 mm (14 inch) được sắp xếp theo kiểu không chính thống 2-1-1-2 (chiếc Yamashiro có tháp pháo thứ ba ngược lại khi so sánh với chiếc Fusō) và một ống khói tách rời việc sắp đặt các tháp pháo giữa. Cách bố trí như vậy không hoàn toàn thành công khi phần vỏ giáp bảo vệ bị kéo dài thêm một cách vô ích, và các tháp pháo giữa gặp khó khăn trong việc ngắm đích. Dù sao, dáng của thân tàu hoàn hảo cho phép những chiếc trong lớp Fusō đạt được tốc độ tối đa 42,6 km/h (23 knot) khi hoàn tất.
Cải tiến
trái|nhỏ|Sơ đồ mô tả lớp Fusō như chúng hiện hữu vào năm 1944
Giữa hai cuộc thế chiến, Fusō và Yamashiro được cải biến đáng kể giống như tất cả các thiết giáp hạm Nhật đang hoạt động vào lúc đó. Fusō được kéo dài thêm 7,5 m (25 ft), cặp ống khói được nhập làm một, 24 nồi hơi đốt hỗn hợp than-dầu được thay thế bằng sáu nồi hơi đốt dầu Kampon, và các tháp kiểm soát được bổ sung thành một kiểu "tháp chùa" đặc trưng cho các tàu chiến Nhật vào thời đó. Vỏ giáp bảo vệ được gia tăng cả về số lượng và cải thiện về chất lượng trên cả hai con tàu, đặc biệt là bên trên vị trí của phòng máy và bên dưới mực nước, một biện pháp được áp dụng do kinh nghiệm đối phó lại ngư lôi của những tàu chiến Anh (ví dụ như, chiếc HMS Marlborough hầu như bị một quả ngư lôi Đức duy nhất đánh chìm ngay sau trận Jutland). Các cải tiến bao gồm đai giáp dày hơn quanh các vị trí của phòng máy ở giữa tàu, được thực hiện bằng cách mở rộng các khu vực này khi các nồi hơi nguyên thủy được thay thế, và việc bổ sung một đai giáp chống ngư lôi. Những chiếc trong lớp Fusō có khả năng đạt được tốc độ 47 km/h (25,4 knot) vào lúc những cải tiến này hoàn tất, chủ yếu là nhờ cải thiện hiệu quả của các nồi hơi trong những năm 1930.
Lịch sử hoạt động
Cho dù có những cải biến đáng kể, Hải quân Nhật vẫn xem những chiếc trong lớp Fusō không được bảo vệ đầy đủ và quá chậm để có thể sử dụng hữu ích, nên cả Fusō lẫn Yamashiro đều được giữ lại trong vùng biển chính quốc Nhật Bản như một lực lượng dự trữ chiến lược – mà cuối cùng lại tỏ ra không cần thiết – vào thời gian diễn ra trận Trân Châu Cảng, và sau đó chủ yếu dùng vào công việc huấn luyện.
Cả hai chiếc trong lớp đều bị Hải quân Mỹ đánh chìm trong trận chiến eo biển Surigao vào ngày 25 tháng 10 năm 1944.
Những chiếc trong lớp
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lớp thiết giáp hạm _Fusō**_ (tiếng Nhật: 扶桑, một cái tên cũ của Nhật Bản), là một lớp thiết giáp hạm bao gồm hai chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, được thiết kế
**Lớp thiết giáp hạm _Ise**_ (tiếng Nhật: 伊勢型戦艦; Ise-gata senkan) là một lớp thiết giáp hạm bao gồm hai chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh
**Lớp thiết giáp hạm _Nagato**_ (tiếng Nhật: 長門型戦艦; Rōmaji: _Nagato-gata senkan_; phiên âm Hán-Việt: _Trường Môn hình chiến hạm_) bao gồm hai thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động từ
**_Fusō_** (tiếng Nhật: 扶桑, _Phù Tang,_ một tên cũ của Nhật Bản), là một thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm cùng tên.
nhỏ|350x350px|_Yamato_ và _Musashi_, hai [[thiết giáp hạm lớn nhất từng được xây dựng.]] Vào cuối thế kỷ 19, chiến lược của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được dựa trên triết lý hải quân Jeune
**_Yamashiro_** (tiếng Nhật: 山城, Sơn Thành) là chiếc thiết giáp hạm thứ hai thuộc lớp Fusō của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và đã bị đánh chìm năm 1944 trong Thế Chiến II. ##
**_Ise_** (), là chiếc dẫn đầu của lớp _Ise_ gồm hai chiếc thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, từng tham gia hoạt động tại mặt trận Thái Bình Dương trong Thế
nhỏ|HMS Dreadnought **Thiết giáp hạm** ()là một loại tàu chiến lớn được bọc thép dày với dàn hỏa lực chính bao gồm pháo có cỡ nòng rất lớn (trên 300mm). Thiết giáp hạm là loại
**_Kongō_** (tiếng Nhật: 金剛, Kim Cương) là chiếc tàu chiến-tuần dương đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc kiểu siêu-Dreadnought, là chiếc dẫn đầu của lớp Kongō bao gồm những chiếc _Hiei_,
**_Hyūga_** (tiếng Nhật: 日向), được đặt tên theo tỉnh Hyūga trên đảo Kyūshū, là một thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Ise_. ## Thiết kế và chế tạo _Hyūga_
**USS _West Virginia_ (BB-48)** (tên lóng "Wee Vee"), là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Colorado_, và là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này nhằm tôn
**USS _Pennsylvania_ (BB-38)** là một thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó thuộc thế hệ các thiết giáp hạm "siêu-dreadnought"; và là chiếc tàu chiến thứ
**** là một chiến lược hải quân nhằm định hướng sự phát triển của Hải quân Đế quốc Nhật Bản cho giai đoạn đầu thế kỷ 20. Chiến lược này yêu cầu Hải quân Nhật
**Hải quân Đế quốc Nhật Bản** (kanji cổ: 大日本帝國海軍, kanji mới: 大日本帝国海軍, romaji: _Dai-Nippon Teikoku Kaigun_, phiên âm Hán-Việt: **_Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân_**), tên chính thức **Hải quân Đế quốc Đại Nhật
**USS _Bryant_ (DD-665)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
Khẩu **Vickers 14 inch 45 li** được thiết kế và chế tạo bởi Vickers và ban đầu được lắp đặt trên thiết giáp-tuần dương _Kongō _được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản.
Chiếc **USS _Franklin_ (CV/CVA/CVS-13, AVT-8)**, tên lóng là "Big Ben", là một trong số 24 tàu sân bay thuộc lớp _Essex_ được chế tạo trong Thế Chiến II cho Hải quân Hoa Kỳ. Nó được
**USS _Melvin_ (DD-680)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Robalo_ (SS-273)** là một tàu ngầm lớp _Gato_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa
Tên tàu Nhật tuân theo các quy ước khác nhau từ những quy ước điển hình ở phương Tây. Tên tàu buôn thường chứa từ _maru_ ở cuối (nghĩa là _vòng tròn_), trong khi tàu
là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc. Tên của nó được đặt theo con sông Mogami
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
Quân xưởng Hải quân Yokosuka, 1944-45 là một trong bốn nhà máy đóng tàu hải quân chủ lực được sở hữu và điều hành bởi Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và được đặt tại
,hay còn gọi là **Thân vương Takamatsu** là con trai thứ ba của Thiên hoàng Đại Chính và Hoàng hậu Trinh Minh và là em trai của Thiên hoàng Chiêu Hòa. Ông trở thành người