✨Eino Leino

Eino Leino

Eino Leino (tên khai sinh Armas Einar Leopold Lönnbohm; 6 tháng 7 năm 1878 – 10 tháng 1 năm 1926) là nhà thơ, nhà báo Phần Lan, được coi là một trong những tác giả tiên phong trong thi ca Phần Lan và là thi nhân dân tộc Phần Lan. Thơ ông kết hợp yếu tố hiện đại với dân gian Phần Lan. Phần lớn tác phẩm của Leino mang phong cách Kalevala và dân ca nói chung. Những chủ đề thường xuyên trong thơ Leino là thiên nhiên, tình yêu và sự tuyệt vọng. Ngày nay, người dân Phần Lan vẫn yêu mến và đọc thơ Leino.

Ngày 6 tháng 7 được gọi là Ngày Eino Leino () cũng như ngày thơ ca Phần Lan và mừng mùa hạ. Từ năm 1992, ngày này trở thành ngày treo quốc kỳ Phần Lan.

Cuộc đời và phong cách

Gia đình và thời trẻ

Eino Leino chịu báp têm với tên gọi Armas Einar Leopold Lönnbohm tại thị trấn Paltamo, là con út và con trai thứ bảy trong gia đình có mười người con. Gia đình Leino sống tại làng Paltaniemi. Cha Leino đã đổi tên từ Antti Mustonen thành Anders Lönnbohm để tăng khả năng có thể cưới được người vợ tương lai thuộc giới thượng lưu là Anna Emilia Kyrenius. Ông Lönnbohm làm công chức đạc điền, đồng thời quản lý trang trại Hövelö của riêng gia đình. Dòng họ Leino có nguồn gốc từ Liperi và Sortavala tại Karelia, còn bên ngoại truy ngược về Tây Nam Phần Lan.

Nhà Lönnbohm dường như là nơi nuôi dưỡng và phát triển tinh thần phong trào Fennoman của Johan Vilhelm Snellman. Eino Leino sớm được tiếp thu tri thức và khả năng văn học từ các anh trai Oskar, Kaarlo, Viktor và đặc biệt là Kasimir. Kasimir Leino cũng là nhân vật văn hóa quan trọng tại Phần Lan trong vai trò nhà thơ, nhà phê bình và đạo diễn sân khấu; chính ông đã truyền lại ảnh hưởng văn hóa châu Âu đương thời cho anh chị em mình. Năm 1898, Kasimir và Eino lập ra một tạp chí văn học.

Tuổi thơ Eino ở Hövelö thấm đẫm những câu chuyện, dân ca và lời chú Kainuu cổ, cũng như chuyện kể hấp dẫn về thời Đại nộ hay Lâu đài Kajaani ở Bắc Ostrobothnia. Những người chèo thuyền từ các vùng chết đói đến Oulu ghé qua bờ Hövelö cũng nhắc Eino về thực tế khắc nghiệt của cuộc sống.

Cha mẹ qua đời khi Leino còn tuổi đi học. Leino bắt đầu đi học ở Kajaani rồi tiếp tục đến sống tại nhà họ hàng để học tại Oulu và Hämeenlinna. Sau khi tốt nghiệp trung học Hämeenlinna, Leino vào học Đại học Helsinki.

Leino học trường tiểu học Kajaani rồi lên trung học Oulu (1889–1890). Năm 1890, cha qua đời khiến kinh tế gia đình khó khăn, ông cùng với anh trai là nhà báo Oskar Lönnbohm chuyển đến Hämeenlinna. Năm 1895, ông tốt nghiệp trung học Hämeenlinna ở tuổi 16. Leino cũng nhập học Đại học Helsinki nhưng sớm bỏ để theo đuổi niềm đam mêm văn học.

thumb|left|Nơi sinh Eino Leino tại [[Hövelö, ảnh chụp năm 1932]]

Khi còn là học sinh, Leino đã bắt đầu tập tành làm thơ. Mùa thu năm 1890, khi 12 tuổi, ông có bài thơ Kajaani linna (Lâu đài Kajaani) đăng trên tờ Häme Sanomat do tổng biên tập Oskar Lönnbohm hỗ trợ. Những bài thơ của Leino viết về tình cảm học trò dưới mái trường Hämeenlinna trên báo chép tay Vasama về sau được đưa vào tập thơ đầu tay Maaliskuun lauluja (Khúc hát tháng Ba) xuất bản năm 1896. Khi còn học trung học, Leino đã tìm tòi về văn học thế giới. Ông biết về các tác gia văn học cổ đại qua những giờ tiếng Latinh. Ông cũng học đọc tác phẩm gốc bằng tiếng Đức và tiếng Pháp của Heinrich Heine, Friedrich Nietzsche, Émile Zola, Guy de Maupassant. Năm 1894, Leino bắt đầu sự nghiệp dịch thuật văn học thế giới với tác phẩm đầu tay Kung Fjalar (Vua Fjalar) của nhà thơ Thụy Điển Johan Ludvig Runeberg, được Hội văn học Phần Lan ( - SKS) ấn hành.

Viết báo khỏe cũng không ngăn nổi Eino Leino say sưa đắm mình vào thơ ca. Các tập thơ Sata ja yki laulua (Một trăm lẻ một bài hát) (1898) và Ajan aalloilla (Ta cưỡi sóng) (1899) có đặc trưng về sự chiêm nghiệm và thức tỉnh lòng yêu nước. Bài thơ Hymyilevä Apollo (Nụ cười Apollo) ca ngợi lòng khoan dung, tình yêu với người chung quanh. Ước mơ cho dân tộc Päivän poika (Chàng trai thời đại) thể hiện niềm tin lạc quan vào con người của chàng trai trẻ Leino. Ngược lại, tập thơ Hiihätäjn virsiä (Thánh ca người trượt tuyết) (1900) nhuốm màu hoài niệm u sầu về ngôi nhà thời thơ ấu.

thumb|Freya Schoultz xuân 1903 Đánh bạn với những đại diện thế hệ nhạc sĩ và nghệ sĩ Phần Lan đang nổi lên là Akseli Gallen-Kallela, Jean Sibelius, Robert Kajanus, Pekka Halonen và Emil Wikstrom đã kích thích loại hình nghệ thuật mới trong Leino. Cùng với chủ nghĩa Karelia đang là chủ đạo cho Chủ nghĩa tân lãng mạn tại Phần Lan khi ấy, Leino bắt đầu đi sâu Kalevala. Vở kịch thơ Tuonela joutsen (Con thiên nga của Tuonela) (1898) và Sota valosta (Chiến đấu vì ánh sáng) (1900) được coi là khởi đầu cho chủ nghĩa tượng trưng trong văn học Phần Lan. Chạy theo xu hướng nghệ thuật toàn châu Âu chống lại chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa tự nhiên, thay vào đó tập trung coi thần thoại và cổ tích phổ quát là phản ánh cảm xúc và tư tưởng con người, Leino cũng tìm tư liệu để diễn giải thời đại mình thông qua Phần Lan cổ trong Kalevala.

Nỗ lực này đạt đến đỉnh cao với tập thơ Helkavirsiä (Khúc ca địa ngục) xuất bản năm 1903, được coi là một trong những tác phẩm mang tính bước ngoặt của nền thơ ca Phần Lan. Áp dụng và biến đổi ngữ liệu Kalevala, Leino đã tạo ra những khúc ballad và truyền thuyết theo phong cách cổ xưa, chủ đề và nhân vật thuộc thời Trung cổ Hämälä của Công giáo La Mã cũng như thế giới Đông La Mã-Karelia và Chính thống giáo-Kalevala. Nhưng sâu xa nhất, các bài thơ đó nhắm đến những câu hỏi cơ bản của con người hiện đại: mối quan hệ mỗi cá nhân với cái chưa biết và cái chết, tự do cá nhân và giới hạn của tri thức. Helkavirsiä được nhận xét là phản ánh "tính chất không khoan nhượng" dấu ấn của Ibsen và khả năng con người thách thức số phận chính mình dựa trên triết lý Nietzsche. "Vòng xoáy dân gian và ngụ ngôn thô ráp" cũng kết nối với truyện thơ Simo Hurtta xuất bản năm 1904, được Leino dùng để mô tả những sự kiện trong Isoviha tại Bắc Karelia.

Thời kỳ sáng tạo của Leino trong những năm đầu thế kỷ 20 được khơi nguồn từ tình yêu dành cho dịch giả Freya Schoultz, hai người kết hôn năm 1905. Hai người có con gái là Eya Helka. Trong tập thơ Talviyö (Đêm đông) (1905) có bài Nocturne (Bóng đêm) tỏa ra vẻ thần bí của một đêm hè mà ông dành tặng cho người mình yêu. Sau chuyến đi dài ngày tới Paris và Berlin, quan hệ vợ chồng bắt đầu nguội lạnh. Năm 1908, Leino dọn khỏi nhà chung ở Länsi Ranta (nay là Eteläranta 12). Cũng trong khoảng thời gian đó, ông dần có tình cảm với người bạn là nữ văn sĩ L. Onerva.

Tiểu thuyết Routavuosi, kịch lịch sử, nhà phê bình trên Päivä

thumb|Báo văn hóa [[Päivä xuất bản tại Helsinki năm 1907–1911]] Sau cách mạng Nga 1905, Leino đã đưa những trải nghiệm sâu sắc về thời cuộc vào tác phẩm vẫn thường gọi là bộ tiểu thuyết năm băng giá: Tuomas Vitikka (1906), Jaana Rönty (1907) và Olli Suurpää (1908). Trong đó, như sự tiếp nối luận chiến trên báo, ông đã nhổ tận gốc những điểm yếu dân tộc, phân định ra các hạng người trong thời đại mình, như kẻ phản bội lý tưởng và kẻ nổi loạn không đâu, cuối cùng trở nên những kẻ vô chính phủ. Trong tiểu thuyết Tuomas Vitikka, Leino chế nhạo chủ nghĩa dân tộc tự mãn và tạo ra tuyến nhân vật châm biếm từ đại diện các thế hệ khác nhau thuộc phong trào dân tộc Phần Lan, độc giả đương thời có thể dễ dàng nhận ra những con người tiêu biểu này.

Niềm đam mê cháy bỏng của Leino đối với sân khấu tiếp tục cả trong cả những bài phê bình lẫn các vở kịch do chính mình sáng tác. Lấy hình mẫu August Strindberg mà bản thân ngưỡng mộ, Leino tập trung vào lịch sử Trung Cổ và thử nghiệm phát triển tinh thần dân gian Phần Lan trong các vở Lalli (1907) và Maunu Tavast (1908). Vở Simo Hurtta (1908) tiếp tục chủ đề bài thơ cùng tên xuất bản trước đó.

Chuyến đi Ý – Mùa Bohemia – Sunnuntai

thumb|Onnen orja (1913), tập cuối trong loạt tiểu thuyết Orja của Leino Tháng 8 năm 1908, Eino Leino rời Phần Lan đến Ý. Một phần kinh phí do quỹ quảng bá văn học Phần Lan tài trợ cho việc dịch thuật Thần khúc của Dante. Sau vài tháng ở Đức rồi đến Roma, Leino bắt đầu nghiên cứu chuyên sâu tiếng Ý và viết về Dante. Mùa đông năm 1908–1909, Leino tham gia cùng các tác gia Phần Lan khác đang ở lại Roma như L. Onerva, Aarni Kouta, Santeri Ivalo, Onni Okkonen, Liisi Karttunen và Henry Biaudet. Ngoài việc dịch Dante ra tiếng Phần Lan, Leino cũng phác thảo các vở kịch ở Roma và viết du khảo cho tờ Turku Sanomat. MÙa xuân 1909, ông cùng Onerva rời Phần Lan, tạm dừng lại trên đường tới Berlin.

Leino với Kaarle Halme sau đó tiếp tục hợp tác với nhau trong điện ảnh. Bộ phim truyện đầu tiên của Phần Lan Kesä (Mùa hè) do Leino viết kịch bản còn Halmee đạo diễn. Phim chiếu ra mắt tháng 1 năm 1915 tại nhà hát Lyyra, Helsinki.

thumb|Một trang bản thảo Helkavirsiä tập 2 Năm 1915, Leino tham gia thành lập tuần báo văn học Sunnuntai (Chúa Nhật). và yêu cầu bãi bỏ án tử hình.

Tháng 4 năm 1918, loạt bài báo 6 kỳ của Leino "Vì công nhân Phần Lan" được đăng trên tạp chí Dân chủ Xã hội Työn valta ("Quyền lực Lao động"), với tư cách nhà văn vô tư thuộc tầng lớp "dân nghèo văn minh", ông kêu gọi mạnh mẽ cho hòa bình và hiểu biết lẫn nhau. Ông viết: "Nền dân chủ xã hội sẽ không có tương lai ở Phần Lan trừ khi có thể tiếp thu "những lý tưởng vĩnh cửu" về tính hợp pháp, dân chủ và tự do dân sự". Theo chủ nghĩa Karelia, Leino cũng từng phục vụ trong chiến tranh với tư cách là cố vấn không chính thức cho Sulo Wuolijoki, thư ký ủy ban đàm phán hiệp ước nhà nước giữa Phần Lan và nước Nga Xô viết. Sau chiến tranh, Leino không bị kết tội vì phục vụ cho chính quyền Phái đoàn Nhân dân Phần Lan ().

Leino cũng thuật lại nội chiến trong tiểu thuyết Punainen sankari (Anh hùng đỏ) (1919) và sử thi Vanha pappi (Giáo sĩ già) (1921). Nhân vật chính của Punainen sankari là một thẩm phán cộng sản, tự bỏ đi danh dự để bao che cho tên trùm nhưng cuối cùng phải trả giá bằng chính mạng sống bởi luật pháp cộng sản. Vanha pappi vẽ nên bức tranh rộng lớn khắc họa Tavastia có những giáo sĩ hoạt động ngầm, bị "lũ bất lương trên phố" "bọn thú vật ngoại ô" phe đỏ bắt bớ. Ông mô tả "sự hy sinh quên mình" của những người phe trắng theo phong cách Runeberg với những lý tưởng mạnh mẽ. Tập thơ "Vapaude kirja" (1918) tập hợp các bài theo chủ đề chính trị và đất nước do Leino sáng tác trong hai thập kỷ, trong đó phản ánh những cảm xúc mâu thuẫn do cuộc nội chiến tạo ra. Đối với nhà phê bình đương đại Huugo Jalkanen, tập thơ giống như "chiếc trống ma thuật" để các thế hệ tương lai có thể hình dung ngay lập tức về số phận và trải nghiệm kinh hoàng của tiền nhân.

Tháng 7 năm 1918, bạn bè tổ chức bữa tối sinh nhật lần thứ 40 linh đình cho Leino. Cùng năm, ông được Nhà nước tặng trợ cấp dành cho văn sĩ.

Những năm cuối

phải|nhỏ|Cáo phó Leino trên tờ [[Suomen Kuvalehti ngày 16 tháng 1 năm 1926]] Đầu thập niên 1920, sức khỏe và tinh thần Leino đều suy giảm, ông phải nằm viện dài ngày. Tâm trí chán nản dao động ảnh hưởng đến thái độ và quan điểm ông. Từ một người ủng hộ ứng cử viên tổng thống Carl Gustaf Emil Mannerheim, Leino quay sang ngưỡng mộ Kaarlo Juho Ståhlberg.

Hè 1921, Leino dự chuyến du bút tới Estonia do thân hữu Phần Lan-Estonia là Aino và Gustav Suits tổ chức. Với những đêm thơ, đọc thơ và chào mừng tại Tartu và Tallinn, chuyến đi thành công tốt đẹp và Eino Leino được mọi nơi đón nhận như một thi sĩ nổi bật. Sau chuyến đi, Leino ký giấy kết hôn lần thứ ba với nhân viên ngân hàng Hanna Laitinen, cuộc hôn nhân thực tế chỉ kéo dài vài ngày. Năm 1921, Leino nộp đơn xin từ bỏ quốc tịch Phần Lan. Ông đã viết thư cho Tổng thống Phần Lan Kaarlo Juho Ståhlberg và người đứng đầu Estonia là Konstantin Päts để xin được làm công dân Estonia. Leino cảm thấy mệt mỏi vì thiếu tiền đồng thời bị chỉ trích. Năm ấy, ông biên soạn cuốn hồi ký Elämäni kuvakirja. Ngôi nhà cuối cùng Leino thuê ở là Nuppulinna Hyvinkää (nay là Tuusula).

Qua đời

Năm 1926, ông qua đời ở tuổi 47 và rồi được an táng tại Nghĩa trang Hietaniemi ở Helsinki. Là người nổi tiếng đương thời, nhà nước đã chi trả phí an táng đồng thời tổng thống Lauri Kristian Relander và các quan chức khác đến dự tang lễ.

Hiện không chắc chắn về nguyên nhân cái chết của Eino Leino. Trong tác phẩm Mestari, nhà văn Hannu Mäkelä mô tả Leino qua đời vì bệnh tủy sống tiến triển và vôi hóa mạch máu khiến xuất huyết não, trước đó bệnh đã làm rối loạn chức năng vùng bụng. Theo Mäkelä, cả hai bác sĩ Wasastjerna và Lindén đều đã xác định nguyên nhân tử vong của Leino. Nhưng bác sĩ tâm thần của Leino là Väinö Lindén lại dùng bút chì ghi chú bên lề cuốn tiểu sử của L. Onerva rằng ông qua đời vì bệnh giang mai.

Phong cách văn chương và tầm quan trọng

Phong cách biến đổi

Leino được coi là người đầu tiên và người định hình quan trọng nhất cho chủ nghĩa lãng mạn dân tộc trong văn học Phần Lan. Trên thực tế, Leino đã tự đặt ra thuật ngữ chủ nghĩa tân lãng mạn dân tộc để mô tả tác phẩm của những tài năng trẻ Phần Lan như nhà soạn nhạc Jean Sibelius, họa sĩ Akseli Gallen-Kallela và kiến trúc sư Eliel Saarinen.

Phong cách của Leino đã phát triển trong suốt 35 năm sự nghiệp. Các tác phẩm đầu tiên kể cả tập thơ nổi tiếng Helkavirsiä (1903) đều có thể thấy ảnh hưởng của sử thi dân tộc Kalevala. Những năm cuối đời, ông trở lại với chủ nghĩa lãng mạn dân tộc.

Động lực sáng tác bên trong của Leino bắt nguồn từ sự bất dung giữa chủ nghĩa anh hùng cá nhân tự cho mình là trung tâm và việc đón nhận tinh thần thời đại.

Thành ngữ phổ biến

Nhiều câu thơ của Leino đã được sử dụng như những thành ngữ Phần Lan phổ biến, ví dụ: Kell' onni on, se onnen kätkekön (câu mở đầu bài thơ Laulu onnensta), tạm dịch: Nếu gặp may, hãy giấu đi. Ngụ ý: Phải là người giản dị, không nên khoe khoang, nếu khoe khoang quá làm công chúng ganh tỵ.
Ei paha ole kenkään ihminen, vaan toinen on heikompi toista (từ bài thơ Hymyilevä apollo), tạm dịch: Không ai xấu nhưng có người yếu hơn. haihtuvi nuoruuskalliit on laulujen lunnaat (từ bài thơ Elegia), tạm dịch: tuổi xuân đang mấtchuộc lại khúc ca thật đắt kansakunnan kaapin päällä (không rõ nguồn gốc, thường được gán cho Leino), tạm dịch: tủ áo quốc gia *syntymässä säikähtänyt (từ bài thơ Tumma), tạm dịch: giật mình chào đời

  • kyltyiri (từ bài thơ Kyltyiri) *eli vain syksystä jouluun (từ bài thơ cùng tên nói về tiểu thuyết gia Aleksis Kivi), tạm dịch: chỉ từ mùa thu đến Giáng Sinh.

Đặc điểm và đánh giá

Tác phẩm của Leino luôn được đón nhận trái chiều cả trong giới học thuật và lẫn giới văn nghệ sĩ. Tài năng nhưng nhân cách đa đạng đã khơi dậy nhiều cảm xúc trong lòng độc giả đương thời. Đặc biệt là thế hệ nhà văn thập niên 1920 xa lánh tác phẩm của Leino dù vẫn ngưỡng mộ thời trẻ của ông. Ngay cả những người theo chủ nghĩa hiện đại khởi đầu sự nghiệp sau Thế chiến thứ hai cũng coi Leino đối lập với tác phẩm của họ. Sự coi thường của các tác giả đồng nghiệp dành cho Leino đã ảnh hưởng đến nhiều nhà nghiên cứu, và thực tế là Leino được nghiên cứu tương đối ít cho dù được nhiều giải thưởng, được nhà nước công nhận và trao tặng lương hưu.

Tiểu sử chi tiết nhất về Leino được viết vào thập niên 1930 dưới ngòi bút người yêu và đồng nghiệp của ông là L. Onerva. Qua những trang giấy đầy kịch tính, Onerva cũng viết về đời mình. Cuối năm 1953, Onerva viết trên tạp chí Kaltio:

Trong những tác phẩm vượt trội của Leino, chẳng hạn như vở kịch Maan parhaat (1911), có thể dễ dàng nhận ra những người từng là bạn nhưng hiện thời lại là kẻ thù văn chương, như các tác giả Maila Talvio và V. A. Koskenniemi. Họ cũng đáp trả lại, ví dụ như Koskenniemi viết cho biên tập viên tờ Iltalehti:

Trong lời tựa tuyển tập Lyriskt Urval dịch sang tiếng Thụy Điển năm 1931, nhà thơ Elmer Diktonius đã thử mô tả hai địa vị song hành đó của Leino trong văn hóa Phần Lan:

Trong lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh Leino tại Paltaniemi, nhà văn Erno Paasilinna phát biểu khẳng định tính bền vững của các tác phẩm phê bình văn hóa của Leino:

Nhà phê bình văn hóa của tờ Helsingin Sanomat Seppo Heikinheimo thậm chí còn liệt khả năng ngôn ngữ của Leino vào hàng tốt nhất thế giới:

Tuy vậy, trong vòng những thập niên sau đó, Leino vẫn không được đa số yêu thích, như Matti Klinge đã hạ thấp trong nhật ký của mình:

Mặt khác, những người làm sân khấu tân thời vẫn tìm ra những góc nhìn mới và kịch tính trong các tác phẩm của Leino. Chỉ đạo sân khấu Juha Hurme viết:

Thơ phổ nhạc

thumb|Syystunmalma dựa trên thơ Leino của Toivo Kuula năm 1911

Thông tin đương thời cho rằng Leino không có khiếu thẩm mỹ âm nhạc, nhưng ông đã thể hiện nhịp điệu và tính nhạc một cách hoàn hảo qua ngôn ngữ thơ. Ông cũng rất giỏi phân tích các buổi hòa nhạc đã nghe.

Những người phổ nhạc cho thơ Leino đầu tiên xuất sắc nhất chính là bạn bè ông: nhà soạn nhạc Toivo Kuula, Leevi Madetoja và Oskar Merikanto. Kuula phổ nhạc tổng cộng 22 bài thơ, trong đó nổi tiếng nhất là Virta venhettä vie (1906), tác phẩm đột phá Tuijoti tulehen kauan (xuất bản năm 1907), cantata Koolemattumuuen tovosa cho giọng nam trung, hợp xướng và dàn nhạc (1910), rồi Merenkylpijäneidot, Orja poikaImpi ja Pajarin poika (1911) đều dựa trên Helkavirsiä. Trong thơ Leino, Kuula tìm thấy âm thanh của những mảng màu tối lãng mạn đầy suy tư.

Leevi Madetoja cũng bắt đầu sự nghiệp bằng thơ Leino; tác phẩm đầu tiên là Shakkipeliin (1910) viết cho dàn nhạc đã thu hút được sự chú ý. Các bài hát hợp xướng năm phần đầy thách thức, như Iltatunnelma (1916) và Soita somer, helä sikta đã khẳng định vị trí trong làng hợp xướng Phần Lan. Đến thập niên 1940, ngay trước khi qua đời, Madetoja còn tiếp tục hoàn thành các tác phẩm dựa vào thơ Leino như Hän kulevi ö kikkien. So với Kuula và Madetoja, những khúc hát solo của Oskar Merikanno có giai điệu hay, mang âm hưởng dân gian hơn. Một số bài hát phổ thơ Leino được yêu thích nhất vẫn là dựa trên Hymyilevän Apollon: bản song ca Oi kiitos sa Luojani armollinen (1906) và bản hợp xướng O Misumatket stilln sen virren (1905).

Erkki Melartin là nhà soạn nhạc thời kỳ đầu cho Leino. Năm 1906, ông viết nhạc cho vở Hiide miekka của Leino. Ngoài ra, ông còn phổ nhạc cho 12 bản solo, trong số đó có Trong số mười hai bản độc tấu Leino của anh ấy có Mirjamin laulut, Minä metsän polkua kuljenPäivän pojan (1903) dựa trên một vài khổ thơ Päivän laulu. Vở opera ngắn Väinämöinen kosinta (1914) của nhà soạn nhạc Sune Carlsson cũng dựa trên thơ Leino. Trong số ít tác phẩm phổ thơ của Jean Sibelius thì được biết đến nhiều nhất là Maan virsi, cantata dành cho dàn hợp xướng và dàn nhạc giao hưởng ra đời năm 1920.

Trong những thập kỷ đầu tiên của Phần Lan độc lập, đã có thêm thơ Leino được phổ theo phong cách hiện đại, như Ukri (1938–1943) được Aarre Merikkanno soạn cho hợp xướng nam ban và vở opera Simo Hurtta (1948) của Tauno Pylkkänen (1948). Trong số các bản tình ca nổi bật có Tumma (1941) của Lauri Parviainen soạn cho đơn ca với nhạc đệm dương cầm.

Thập niên 1960, Kaj Chydenius đã khiến cho nhiều bài thơ nổi tiếng của Leino lại trở nên sống động theo một cách hoàn toàn mới. Những giai điệu tinh tế đầy cảm xúc của Nocturne, Lappi kesäLemminkäisen äidin kehtolaulun lôi cuốn thế hệ thanh niên thời ấy. Bài hát Lemminkäisen äidin kehtolaulun cũng được sân khấu sinh viên Ylioppilasteatteri đưa vào nhạc kịch theo kịch thơ Tuonela joutsen (1966) của Leino. Từ đó, Chydenius cũng sáng tác và phổ biến thêm nhiều tác phẩm dựa trên thơ Leino. Nhà soạn nhạc gốc Áo Johann Strohofer cũng dựa vào Helkavirsiä để cho ra đời oratorio Herramme Vapahtajamme ra mắt lần đầu năm 1975. Năm 1980, vở opera của Ilkka Kuusisto dựa trên kịch Sota valosta của Leino được công diễn lần đầu. Năm 2007, Kaija Saariaho phổ nhạc bốn bài thơ thời kỳ đầu của Leino để đưa vào Leino Songs for voice and Orchestra. Trước đó vào năm 2006, công ty Hà Lan Munich Records phát hành CD Aina Leino, do ban nhạc Hà Lan Aina cùng với nghệ sĩ độc tấu Phần Lan Pauliina May trình diễn. Album có 14 bài lấy từ thơ Leino, do nhạc sĩ Hà Lan Izak Boom biên soạn.

Kỷ niệm

Đài tưởng niệm

nhỏ| Bảng tưởng niệm trên tường nhà Leino ở [[Roma bên bờ sông Tiber, nơi ông dịch Thần khúc của Dante.]] Năm 1992, sinh nhật Leino vào ngày 6 tháng 7 được gọi là Ngày Eino Leino, thi ca và chào hạ; đồng thời trở thành ngày treo quốc kỳ của Phần Lan.

Công viên Esplanadi ở Helsinki có tượng Eino Leino do Lauri Leppänen điêu khắc. Bức tượng ra mắt ngày 26 tháng 9 năm 1953, đúng 63 năm khi Leino xuất bản bài thơ đầu tiên trên tờ Hämeen Sanomi. Trên đế tượng có khắc câu thơ trích trong bài Väinämöisen laulu của Leino: Yksi on laulu ylitse muiden: ihmisen aattehen hengen ankara laulu (tạm dịch: Một là khúc ca trên phần còn lại: bài ca khó nghe của tâm hồn con người). Một điều thú vị là trong bàn tay bức tượng có đồng xu 5 Mác được đặt vào khi đúc.

Năm 1978, kỷ niệm 100 năm ngày sinh Leino, Jouko Toiviainen thiết kế đài tưởng niệm trừu tượng Ukonlintu ja virvaliekki tại nơi sinh của ông tại Paltamo. Dưới bệ là câu thơ trích từ Väinämöisen laulusta: Kansat katoo / ei katoa mahti / jonka on laulanut / mahtaja heimonsa hengen (tạm dịch: Các nước tiêu vong / sức mạnh còn lại / được cất tiếng ca / từ người mang linh hồn bộ tộc). Năm 1978, ngôi nhà cũ vốn bị phá hủy của Leino tại Hövelö ở Paltaniemi đã được phục dựng.

Mộ Leino có mã số U21-15-22 nằm trong khu vực mới tại nghĩa trang Hietaniemi, Helsinki. Bia mộ có khắc huy chương do Ville Vallgren thực hiện. Trên bia mộ cũng khắc khổ thơ cuối bài Hymni tulelle của Leino.

Nơi Leino từng sống

Tập tin:Niittykatu 1.jpg|Năm học cuối ở Hämeenlinna 1894–1895, Leino thuê của bà góa Bergroth trong ngôi nhà gỗ tại góc phố Niitty và Linnankatu. Tập tin:Eerikinkatu 14 Helsinki.jpg|Eerikinkatu 14 là một trong những nơi Leino từng sống ở Helsinki. Ông cùng anh trai Kasimir sống và làm biên tập _Nykyaika_ năm 1897–1898. Tập tin: Kasarminkatu 25 Helsinki.jpg|Năm 1902, Leino thuê một phòng trong căn hộ của mẹ vợ tương lai là bà góa Schoultz tại Kasarmikatu 25. Ảnh chụp nhà ở điều kiện lúc đầu. Tập tin: Eteläranta 12 Helsinki.jpg|Năm 1907, Eino và Freya Leino mua một căn hộ ở Eteläranta (Länsi Ranta trước đây) 12. Tập tin: Annankatu 27 Eerikinkatu 3.jpg|Sau khi ly hôn năm 1908, Leino sống tạm tại Eerikinkatu 3. Tập tin:Liisankatu 9.jpg|Năm 1909, sau khi từ Roma trở về, Leino thuê một phòng tại Liisankatu 9. Tập tin:Tehtaankatu 5.jpg|Đầu thập niên 1910, Leino thuê căn hộ nhỏ tại Tehtaankatu 5. Tập tin:Annankatu 11.jpg|Eino Leino và Aino Kajanus sống tại Annankatu 11 vào năm 1913–1914. Tập tin:Fredrikinkatu 34 kortteli Käki.jpg |Thời gian nội chiến, Leino sống trong "Privaatti-Hotelliin" (_Khách sạn tư nhân_) tại Fredrikinkatu 34. Tập tin:Itäinen Kaivopuisto 9.jpg|Xuân 1918, Leino chuyển đến "Riviera-pensionaattiin" (_nhà trọ Riviera_) (Itäinen Kaivopuisto số 9) ở Kaivopuisto. Tập tin:H2923 Onnela C.JPG|Năm 1924-1925, Eino hai lần sống tại nhà trọ Onnela ở Tuusula và viết hồi ký _Elämäni kuvakirja_.

Trên điện ảnh và truyền hình

nhỏ|Tem bưu chính Phần Lan năm 1978 khắc họa Eino Leino Năm 1978, đạo diễn Jaakko Pakkasvirta hoàn thành bộ phim Runoilija ja musa (tạm dịch: Nhà thơ và nàng thơ) kể về cuộc đời Leino nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông. Đoạn mở đầu cho biết "tất cả cảnh phim đều là hư cấu, mặc dù được lấy cảm hứng từ các sự kiện có thật". Esko Salminen vào vai Eino Leino. Phim tập trung miêu tả mối quan hệ của Leino với người vợ đầu Freya Schoultz (do Katja Salminen đóng) và người tình L. Onerva (do Elina Salo đóng). Đồng thời, bộ phim mô tả phong trào dân tộc chủ nghĩa của giới văn hóa Phần Lan trước khi độc lập, với những nghệ sĩ như Akseli Gallen-Kallela và Jean Sibelius.

Ngoài Esko Salminen, vai Eino còn được thể hiện bởi các diễn viên như Leo Riuttu trong phim Rousu ja kulkuri (tạm dịch: Bông hồng và kẻ lang thang) của Ilmari Unho năm 1948, Kari Hietalahti trong phim Sibelius của Timo Koivusalo năm 2003 và Vesa-Matti Loiri trong phim truyền hình Tähtikeinu của Veli-Matti Saikkonen năm 2003 khắc họa cuộc tình tay ba Eino, L. Onerva và Leevi Madetoja.

Năm 1993, Sulevi Peltola đạo diễn và cùng Helena Ihala viết kịch bản phim truyền hình Pankkiherroja dựa trên tiểu thuyết cùng tên của Eino. Matti Pellonpää thủ vai chính Antti Puuhaara.

Tác phẩm

Thơ

  • Maaliskuun lauluja, Otava, 1896
  • Tarina suuresta tammesta y.m. runoja, WSOY, 1896
  • Yökehrääjä, Otava, 1897
  • Sata ja yksi laulua, Otava, 1898
  • Tuonelan joutsen, näytelmäruno, Otava, 1898
  • Ajan aalloilta, WSOY, 1899
  • Kuvaelmia muinaisajoilta, viết cùng với Jalmari Finne từ lễ kỷ niệm Ngày Báo chí tháng 11 năm 1899, được xuất bản lần đầu trên Helsingin Sanomat ngày 23 tháng 12 năm 1984
  • Hiihtäjän virsiä, Otava, 1900
  • Kivesjärviläiset, thơ tự sự, Otava, 1901
  • Pyhä kevät, Otava, 1901
  • Kangastuksia, Otava, 1902
  • Helkavirsiä, Otava, 1903
  • Simo Hurtta. Runoja isonvihan ajoilta, Otava, 1904
  • Talvi-yö, Otava, 1905
  • Turjan loihtu, thơ kịch, Emil Vainio, 1907
  • Halla, Otava, 1908
  • Tähtitarha, Kirja, 1912
  • Painuva päivä, Kirja, 1914
  • Elämän koreus, Kirja, 1915
  • Helkavirsiä. Toinen sarja. Otava, 1916
  • Karjalan kuningas, thơ kịch, Kirja, 1917
  • Leirivalkeat, Kirja, 1917
  • Vapauden kirja, tuyển thơ, Kirja, 1918
  • Bellerophon, truyện thơ, Ahjo, 1919
  • Juhana Herttuan ja Catharina Jagellonican lauluja. Nil nisi mors, Ahjo, 1919
  • Lemmen lauluja, tuyển thơ, Kirja, 1919
  • Simo Hurtta. Runoja isonvihan ajoilta, toinen sarja, Otava, 1919
  • Ajatar. Tietovirsiä, Otava, 1920
  • Kodin kukka ja uhrikuusi, truyện thơ, Ahjo, 1920
  • Syreenien kukkiessa, Minerva, 1920
  • Vanha pappi, thơ tự sự, Otava, 1921
  • Pajarin poika. Truyên dân gian Karelia. Otava, 1922
  • Puolan paanit. Truyên dân gian Karelia, Otava, 1922
  • Helkavirsiä 1–2, in chung, Otava, 1924
  • Shemeikan murhe. Thơ mới, Gummerus, 1924

Truyện

  • Päiväperhoja. Tập truyện ngắn, Eero Erkko, 1903
  • Kaunosielu. Phóng sự, Otava, 1904
  • Päivä Helsingissä. Châm biếm, Otava, 1905
  • Tuomas Vitikka. Tiểu thuyết, Otava, 1906
  • Jaana Rönty. Tiểu thuyết, Otava, 1907
  • Olli Suurpää. Tiểu thuyết, Otava, 1908
  • Rikos. Nghiên cứu. Bài viết nhiều kỳ trên Helsingin Sanomat mùa xuân 1908, tái bản: Eino Leinon Seura, 1949
  • Nuori nainen. Bốn truyện, Yrjö Weilin, 1910
  • Työn orja. Tiểu thuyết, Yrjö Weilin, 1911
  • Rahan orja. Tiểu thuyết, Yrjö Weilin, 1912
  • Naisen orja. Tiểu thuyết, Kirja, 1913
  • Onnen orja. Tiểu thuyết, Kirja, 1913
  • Seikkailijatar. Truyện Nga, Karisto, 1913
  • Mesikämmen. Truyện Giáng Sinh, Kirja, 1914
  • Pankkiherroja. Phóng sự đời sống Phần Lan hiện đại, Kirja, 1914
  • Paavo Kontio. Lakitieteen tohtori. Tiểu thuyết, Kirja, 1915
  • Musti. Truyện đồng thoại, Karisto, 1916
  • Alla kasvon kaikkivallan. Suy nghĩ, cái nhìn và bộc lộ của trẻ em đương thời, Karisto, 1917
  • Ahven ja kultakalat. Truyện suy ngẫm, Ahjo, 1918
  • Elina. Tường thuật tuổi mới lớn, Minerva, 1919 (Tái bản lần 2 với tựa đề Punainen sankari)
  • Kolme lähti, kaksi palasi. Truyện về luật cấm của Phần Lan, Minerva, 1926

Kịch

  • Johan Wilhelm, Wesanderin kirjakauppa, 1900
  • Sota valosta, Otava, 1900
  • Naamioita I: Väinämöisen kosinta, Hiiden miekka, Pentti Pääkkönen, Lydian kuningas, Meiram, kịch, Otava, 1905
  • Naamioita II: Melankolia, Lalli, Niniven lapset, kịch, Otava, 1907
  • Naamioita III: Maunu Tavast, Simo Hurtta, Ritari Klaus, kịch, Vihtori Kosonen, 1908
  • Naamioita IV: Carinus, Alkibiades, kịch, Vihtori Kosonen, 1909
  • Naamioita V: Tuomas piispa, Tarquinus Superbus, Shakkipeli, kịch, Vihtori Kosonen, 1909
  • Naamioita VI: Kirkon vihollinen, Maan parhaat, Ilotulitus, kịch, Yrjö Weilin, 1911
  • Kalevala näyttämöllä, kịch, Yrjö Weilin, 1911

Phi hư cấu

  • Suomalainen näyttämötaide 19 2/4 02, bài luận, Eero Erkko, 1902
  • Suomalaisia kirjailijoita. Pikakuvia, Otava, 1909
  • Suomalaisen kirjallisuuden historia, Yrjö Weilin, 1910
  • Vöyrin sotakoulu. Phỏng vấn, lịch sử, Minerva, 1918
  • Helsingin valloitus. Hồi ký, ấn tượng, Minerva, 1918
  • Elämäni kuvakirja. Hồi ức, suy nghĩ và ấn tượng tuổi thơ, hồi ký, Otava, 1925
  • Maailmankirjailijoita: esseitä, arviointeja, arvosteluja kirjallisuuden ja näyttämötaiteen aloilta, Suomalaisen kirjallisuuden seura, 1978 ISBN 951-717-167-6 Tuyển tập bài báo do Aarre M. Peltonen biên tập.

Kịch bản phim

  • Kesä, 1915 (đạo diễn Kaarle Halme)

Dịch

  • Topelius, Zacharias, Draamalliset teokset: Regina von Emmeritz (Werner Söderström 1899–1901)
  • Topelius, Zacharias, Draamalliset teokset: Kypron prinsessa (Werner Söderström 1901)
  • Runeberg, Johan Ludvig, Teokset II: Nadeshda, Kuningas Fjalar (Werner Söderström 1903)
  • Racine, Phaidra (Helsinki 1907) (nguyên tác: Phèdre)
  • Schiller, Friedrich von, Wilhelm Tell (Otava 1907)
  • France, Anatole, Kuningatar Hanhenjalan ravintola (Yrjö Weilin 1910) (nguyên tác: La Rôtisserie de la reine Pédauque)
  • Goethe, Johan Wolfgang von, Iphigeneia Tauriissa. Suomalaisen kirjallisuuden seuran toim. 111 (SKS 1910) (nguyên tác: Iphigenie auf Tauris)
  • Dante, Jumalainen näytelmä 1–3 (Werner Söderström 1912–1914) (nguyên tác: Divina Commedia)
  • Tagore, Rabindranath, Puutarhuri (Kirja 1913) (nguyên tác: The Gardener)
  • Corneille, Cid (Werner Söderström 1917) (nguyên tác: Le Cid)
  • Tagore, Rabindranath, Uhrilauluja (Kirja 1917) (nguyên tác: Gitanjali)
  • France, Anatole, Apotti Coignardin ajatuksia. Poiminut hänen uskollinen oppilaansa Jacobus Paistinkääntäjä (Minerva 1920) (nguyên tác: Les Opinions de Jérôme Coignard)

Tuyển tập và in lại

  • Kootut teokset. 1–16, Otava 1926–1930
  • Elämän laulu. Tuyển tập thơ. V. Tarkiainen tổng hợp và bình giải, Otava 1947
  • Kirjokeppi. Tuyển tập những bài thơ không nằm trong tuyển tập gốc. Aarre Peltonen và Eino Kauppinen biên tập và bình giải, Otava 1949
  • Runot. 1, 1887–1897. Aarre M. Peltonen hiệu đính và phê bình, Otava 1961
  • Runot. 2, 1897–1901. Aarre M. Peltonen hiệu đính và phê bình, Otava 1962
  • Runot. 3, 1901–1908. Aarre M. Peltonen hiệu đính và phê bình, Otava 1964
  • Runot. 4, 1908–1915. Aarre M. Peltonen hiệu đính và phê bình, Otava 1968
  • Eino Leinon runot ja runosuomennokset koottujen teosten ulkopuolelta 1915–1920 . (Bao gồm: Aarre M. Peltonen: Eino Leinon runojen syntyajat ja toisinnot 1915–1920. Tekstikriittinen tutkimus). Tập số 9. Đại học Tampere, Văn học trong nước. 1977
  • Eino Leinon runot ja runosuomennokset koottujen teosten ulkopuolelta 1920-1926 . (Bao gồm: Aarre M. Peltonen: Eino Leinon runojen syntyajat ja toisinnot 1920–1926. Tekstikriittinen tutkimus). Tập số 9. Đại học Tampere, Văn học trong nước. 1977
  • Eino Leino – Elämän kirja. Tuyển tập. Hannu Mäkelä biên tập, Otava 1980
  • Eino Leino. Kodin suuret klassikot 1–4, Weilin+Göös 1986–1990
  • Kirjeet Freya Schoultzille ja omaisille. Kirjeet I. Aarre M. Peltonen biên tập, Otava 1961
  • Kirjeet L. Onervalle. Kirjeet II. Aarre M. Peltonen biên tập, Otava 1960
  • Kirjeet taiteilijatovereille, arvostelijoille ja tutkijoille. Kirjeet III. Aarre M. Peltonen biên tập, Otava 1961
  • Kirjeet Aino Kallakselle, ystäville ja yhteisöille. Kirjeet IV. Aarre M. Peltonen biên tập, Otava 1962
  • Muistelmat. Kulttuurikuvat. Tunnustukset I. 1878–1901. Aarre M. Peltonen biên tập, Otava 1965
  • Pakinat I–II. Aarre M. Peltonen biên tập, Otava 1960

Bản dịch các tác phẩm Leino

Tiếng Thụy Điển

  • Eino Leino, Lyriskt urval. Elmer Diktonius tổng hợp và biên dịch, Söderström 1931
  • Finsk lyrik II. Rafael Lindqvist dịch và giới thiệu, Blinkfyrens förlag 1932. Gồm 26 bài thơ dịch, như Elegi, Lapp-sommar, NocturneLänge såg jag in i elden.
  • Eino Leino, Helkasånger. Thomas Warburton dịch, Schildt 1963
  • Eino Leino, Inför allmaktens anlete. En mystisk trilogi – tankar tänkta, bekännelser gjorda, fjärrsyner sedda av ett tidens barn. Nils-Börje Stormbom dịch. Sahlgren 1991.

Ngôn ngữ khác

Tác phẩm của Leino cũng đã được dịch sang tiếng Anh, tiếng Ý, tiếng Latvia, tiếng Na Uy, tiếng Ba Lan, tiếng Thụy Điển, tiếng Đức, tiếng Hungary, tiếng Nga và tiếng Estonia.

Một số bài thơ lẻ của Leino được dịch sang tiếng Việt và đăng trên tạp chí Văn học nước ngoài:

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Eino Leino** (tên khai sinh **Armas Einar Leopold Lönnbohm**; 6 tháng 7 năm 1878 – 10 tháng 1 năm 1926) là nhà thơ, nhà báo Phần Lan, được coi là một trong những tác giả
Ngày **10 tháng 1** là ngày thứ 10 trong lịch Gregory. Còn 355 ngày trong năm (356 ngày trong năm nhuận). ## Sự kiện *49 TCN – Julius Caesar vượt qua Sông Rubicon, dấu hiệu
Ngày **6 tháng 7** là ngày thứ 187 (188 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 178 ngày trong năm. ## Sự kiện *371 TCN – Trận Leuctra diễn ra giữa hai thành bang Hy
430x430px|thumb ## Sự kiện ### Tháng 1 * 8 tháng 1: Vua Bảo Đại chính thức kế vị * 11 tháng 1: Trương Tác Lâm tuyên bố 3 tỉnh đông bắc Trung Quốc độc lập
## Sự kiện ### Tháng 1 * 9 tháng 1 – Umberto I lên ngôi vua của Ý. ### Tháng 5 * 15 tháng 5 – Sở giao dịch chứng khoán Tōkyō được thành lập
**Giao thừa** là thời điểm chuyển tiếp giữa ngày cuối cùng của năm cũ sang ngày đầu tiên của năm mới. Đây là một trong những buổi lễ quan trọng trong tập quán, văn hóa
Danh sách xếp theo bảng chữ cái các nhà thơ Phần Lan và các nhà thơ đã viết bằng tiếng Phần Lan kèm theo năm sinh và năm mất: ## A * Aleksanteri Aava (1883–1956)