✨Dust Bowl

Dust Bowl

thumb|Một người nông dân cùng hai đứa con chứng kiến một cơn bão gió bụi đang quét qua. Ảnh chụp tại [[Quận Cimarron, Oklahoma, 1936. Tác giả: Arthur Rothstein]] Sự kiện Dust Bowl, còn gọi là Thập niên Ba mươi Dơ bẩn (Dirty Thirties) hay Sự kiện Cơn bão Đen là một giai đoạn lịch sử ở Hoa Kỳ và Canada, nổi bật với hiện tượng rất nhiều cơn bão và lốc cuốn theo nhiều cát bụi hoành hành ở các đồng cỏ tại khu vực Bắc Mỹ, gây ra nhiều thiệt hại nghiêm trọng cho hệ sinh thái và nông nghiệp trong khu vực. Hạn hán nghiêm trọng cũng như việc thiếu khả năng áp dụng các biện pháp canh tác trên đất khô hạn được cho là đã gây ra tình trạng này. Cũng cần phải kể đến việc canh tác sai lầm tại vùng Đại Bình nguyên Bắc Mỹ trong thập kỷ trước đó, ví dụ như cày bừa quá kỹ ở tầng đất mặt đã tiêu diệt các loài cây cỏ bản địa vốn có hệ thống rễ sâu rông giúp giữ đất và nước ngay cả trong điều kiện hạn hán và nhiều gió bão. Quá trình cơ khí hóa diễn ra mạnh mẽ và việc ứng dụng sâu rộng các công cụ canh tác tiên tiến, đặc biệt là máy kéo cỡ nhỏ chạy bằng xăng và máy gặt đập liên hợp đã ảnh hưởng mạnh tới quyết định chuyển đổi các vùng đồng cỏ khô hạn (phần lớn chúng nằm trong khu vực có lượng mưa không quá hàng năm) thành đất canh tác.

Trong những đợt hạn hán trong thập niên 1930, lớp đất mặt không được giữ chặt vào nền đất phía dưới đã bị gió thổi tung lên và trở thành bụi bay khắp nơi thành từng đám lớn trông như mây, có khi làm đen kín cả bầu trời. Những cụm bụi đen đó - được gọi là "cơn bão đen" (black blizzard) hay "cơn sóng đen" (black roller) - có khi bay tới tận các khu dân cư vùng duyên hải phía Đông Hoa Kỳ tỉ như Thành phố New York hay Washington, D.C., và thường làm giảm tầm nhìn của cư dân xuống còn một mét hay thậm chí còn thấp hơn. Ở Oklahoma, những trận bão đen kín trời làm tầm nhìn giảm xuống con số không đúng nghĩa, và mọi thứ bị bụi phủ kín. Phóng viên của hãng tin Associated Press, Robert E. Geiger trong bài phóng sự ở Thành phố Boise, Oklahoma về cơn bão bụi ngày 14 tháng 4 năm 1935, gọi ngày hôm ấy là "Chủ Nhật Đen" (Black Sunday); Edward Stanley, biên tập viên của Associated Press tại thành phố Kansas đã dùng thuật ngữ "Dust Bowl" khi biên tập lại bài phóng sự của Geiger.

Nạn hạn hán và xói mòn đất trong sự kiện Dust Bowl đã gây ảnh hưởng đến tại vùng cán xoong của các bang Texas, Oklahoma và lan sang các vùng lân cận tại các bang New Mexico, Colorado, Kansas. Hàng vạn gia đình nông dân đã buộc phải rời bỏ trang trại và ruộng đất của mình vì sự kiện này. Nhiều người trong số họ có gốc gác từ vùng Oklahoma (được gọi là những người Okie) di tản xuống vùng California và các bang khác mong tìm được cơ hội sống tốt hơn, nhưng thất vọng vì tình trạng sống ở những vùng này - vốn đang hứng chịu cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng trong giai đoạn 1929-33 - cũng chẳng khá gì hơn mấy. Nhà văn John Steinbeck đã viết các cuốn tiểu thuyết Chùm nho uất hậnCủa Chuột và Người nói về cuộc sống cùng cực của các di dân này. Đó là còn chưa kể hàng trăm hay hàng nghìn cư dân địa phương bị chết do ngộp bởi khói và bụi.

Sự kiện Dust Bowl cùng với cuộc Đại Khủng hoảng kinh tế đã phơi bày khía cạnh đen tối của chủ nghĩa thầu khoán, khi mà người kinh doanh chỉ biết đến lợi ích cá nhân và ngắn hạn, bỏ mặc lợi ích lâu dài của cả cộng đồng và của môi trường, sinh thái. Những hệ quả to lớn của nó đã khiến chính phủ Hoa Kỳ thực thi chương trình cải tổ "Chính sách mới" (New Deal), trong đó có những biện pháp nhằm thay đổi phương pháp canh tác và bảo tồn đất đai trong vùng, ngăn chặn một thảm họa mới có thể xảy ra khi thị trường kinh tế và môi trường một lần nữa lại sụp đổ.

Bối cảnh và nguyên nhân

Tóm tắt

Nói ngắn gọn, nguyên nhân của sự kiện bão bụi trong giai đoạn này bắt nguồn từ phương pháp làm nông cũ kỹ và việc canh tác ồ ạt, vô tội vạ khiến đất bị cày cuốc quá mức, thảm thực vật bản địa bị tiêu diệt làm cho lớp đất mặt quá khô, không còn được cây cối giữ chặt xuống nền đất khiến cho các cơn gió mạnh thổi tung lớp đất mặt đi khắp nơi gây ra những trận bão bụi quy mô khổng lồ. Đợt hạn hán lớn trong thập niên 1930 đã châm ngòi cho những cơn bão bụi đó, khi hạn hán làm đất càng thêm khô và dễ bị thổi bay hơn.

Phải nói người dân đã không hiểu biết kỹ về những khó khăn của vùng Đại Bình nguyên, về điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng của nó và những sai lầm, khuyết điểm trong phương pháp làm nông truyền thống vốn thích hợp hơn với các vùng đất ở phía Đông. Các báo cáo chính thức về tiềm năng nông nghiệp rất ít ỏi và thường dẫn đến kết luận tiêu cực về khả năng kinh tế của vùng, tuy nhiên những tin đồn thổi phóng đại và sai sự thực thì có rất nhiều nhằm mục đích "quảng cáo" và khuyến khích người dân di cư sang miền Tây. Những giai đoạn ẩm ướt và mưa nhiều bất thường cũng khiến người dân lờ đi các nguy cơ và khó khăn do khí hậu khô hạn trong vùng, và gây nên ảo tưởng kéo dài về việc thời tiết sẽ khá hơn và mưa sẽ dần nhiều lên. Thiệt hại do giá sản phẩm giảm và chi phí do việc cơ khí hóa cũng khiến người dân ồ ạt khai hoang vỡ hóa vô tội vạ - ngay cả ở những thửa đất xấu và "khó nhằn" - cũng như sử dụng các phương pháp canh tác gây hại cho đất - nhưng lại rẻ tiền hơn. Hệ quả là đất đai trong vùng đã bị suy kiệt, bào mòn bởi những phương pháp làm nông sai lầm, và trở thành một trong những nguyên nhân chính khiến đất bị khô, dễ bị xói mòn và gây ra các cơn bão bụi khổng lồ.

Chi tiết

Trong quá trình khai phá vùng Đại Bình nguyên Bắc Mỹ trước đây, khu vực xảy ra sự kiện Dust Bowl vốn được cho là không phù hợp với cách canh tác nông nghiệp kiểu châu Âu. Vùng đất đó được gọi là Đại Hoang mạc Mỹ với nguồn nước và lượng gỗ có sẵn rất ít ỏi, khiến cho nó ít tỏ ra hấp dẫn hơn các vùng lân cận đối xét trong lãnh vực nông nghiệp và lập đồn điền. Tuy nhiên, trong những giai đoạn sau đó, có nhiều nguyên nhân khiến vùng Đại Bình nguyên trở thành điểm đến mong muốn của nhiều nông dân và việc canh tác diễn ra ồ ạt ở mức độ chưa từng thấy. Có thể tóm tắt một số yếu tố đó là các đạo luật cấp đất đai cho nông dân với giá rẻ, giai đoạn ẩm ướt bất thường tạo điều kiện thuận lợi cho canh tác, kết hợp với thị trường ngũ cốc trở nên hấp dẫn trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, và việc cơ khí hóa làm năng suất tăng vọt lên rất cao. Giai đoạn ẩm ướt bất thường diễn ra trong thời gian đó tại vùng Đại Bình nguyên khiến dân di cư và chính quyền Liên bang nảy sinh ảo tưởng về "trời sẽ mưa sau khi cày" (rain follows the plow, một câu nói thông dụng trong giới bảo trợ bất động sản) và ảo tưởng về việc khí hậu trong vùng sẽ vĩnh viễn khá lên. Trong khi việc canh tác ban đầu chủ yểu diễn ra dưới dạng lập các trại chăn nuôi gia súc, năm 1886 mùa đông trở nên khắc nghiệt gây ảnh hưởng xấu đến vật nuôi, rồi cộng thêm một đợt hạn hán ngắn năm 1890 và hậu quả của việc chăn thả quá mức kéo dài khiến cho cán cân dần nghiêng về việc sử dụng đất làm nơi trồng trọt, cày cấy.

Nhận thức được những khó khăn trong việc canh tác tại khu vực đất khô hạn ở vùng biên, chính quyền Hoa Kỳ tiến hành những sửa đổi trong việc cấp 160 mẫu Anh đất ruộng theo điều khoản của đạo luật cấp đất: Đạo luật Kinkaid ban hành năm 1994 cấp 640 mẫu cho dân di cư ở 37 quận Tây Bắc Nebraska, và đạo luật cấp đất mở rộng năm 1909 cấp 320 mẫu cho các di dân định cư ở những vùng khác của khu vực Đại Bình nguyên, mục tiêu áp dụng là các vùng đất canh tác khô. Làn sóng dân nhập cư từ châu Âu tới khu vực này bắt đầu diễn ra từ đầu thế kỷ 20, và một giai đoạn ẩm ướt bất thường khác trong thập niên 1910 và 1920 tại Đại Bình nguyên Ví dụ, như tại vùng Đồng bằng Cọc rào (Llano Estacado hay Staked Plain) tại phía Đông New Mexico và Tây Bắc Texas, diện tích đất nông nghiệp tăng gấp đôi trong giai đoạn 1900-20 và gấp ba trong giai đoạn 1925-30.

Có điều, phương pháp canh tác thời bấy giờ khiến cho đất đai dễ bị xói mòn nghiêm trọng trong một số điều kiện môi trường nhất định. Rõ ràng, đất bị cày bừa quá kỹ là nơi phát sinh bụi lớn hơn rất nhiều so với đồng cỏ chưa được canh tác Trong thời kỳ ẩm ướt, đất đai màu mỡ ở đây cho phép sản lượng nông nghiệp tăng lên rất cao, nhưng thời kỳ khô hạn thì năng suất sụt xuống rất thấp. Vùng Đại Bình nguyên cũng là nơi có rất nhiều gió mạnh. Chính vì vậy, khi hạn hán giáng xuống trong thập niên 1930, các thửa ruộng đào xới quá kỹ và bị bỏ không là mục tiêu dễ ngắm của gió bão. Chất đất mịn của Đại Bình nguyên cực kì dễ bị xói mòn và dễ bị thổi bay đi xa bởi các cơn gió mạnh trong khu vực. Bụi tích tụ trong các cơn gió như thế trở thành các cơn bão khổng lồ, mỗi năm càng lúc càng mạnh, thổi bay hàng triệu tấn đất, phủ đất cát đầy các trang trại và nhà cửa trong khu vực và mang bụi đi khắp cả nước Mỹ Khói bụi bay tới tận Chicago và ném xuống đây đất cát. Hai ngày sau, cơn bão đó mang bụi mù đến các thành phố ở tận duyên hải phía Đông, tỉ như Buffalo, Boston, Cleveland, New York, và cả thủ đô Washington, D.C. Mùa đông 1934-35, tuyết đỏ rơi xuống New England Ở Amarillo, Texas, năm 1935 là thời khắc tồi tệ nhất với tổng cộng 908 giờ bão bụi. Trong bảy lần, tầm nhìn giảm xuống con số không, trong đó có một lần bão bụi che phủ bầu trời suốt 11 giờ liền. Một cơn bão khác hoành hành suốt 3 ngày rưỡi.

Ảnh hưởng đến kinh tế và nông nghiệp

Những cơn bão của sự kiện Dust Bowl đã gây xói mòn dữ dội ở đất nông nghiệp tại những vùng nó quét qua. Hơn 30 triệu hécta đất ở Texas, Kansas, Oklahoma, Colorado bị hư hại nặng nề. Ở nhiều vùng, hơn 75% lượng đất ở tầng mặt đã bị cuốn đi tính đến thập niên 1930. Ở những vùng khác có những con số mất mát khác hơn và thiệt hại giữa các vùng cũng khác nhau khá nhiều. Trong thời gian ngắn, xói mòn đất làm giảm năng suất nông nghiệp và kéo theo đó là giảm giá trị của đất đai, tuy nhiên việc phân bổ đất đai có thể thay đổi theo thời gian, trong đó bao hàm các yếu tố chuyển đổi mục đích sử dụng đất và dân số trong vùng suy giảm, dẫn đến sự phục hồi về giá thuê đất và giá trị đất Đồng thời, sự sụt giảm năng suất và hoa lợi ở những vùng xói mòn nghiêm trọng không những nặng nề mà còn rất dai dẳng: các thống kê cho thấy ngay cả việc điều chỉnh canh tác ở các vùng xói mòn nặng chỉ có thể phục hồi chưa tới 25% tổn thất nguyên thủy về nông nghiệp tại những nơi đó Đồng thời, lợi nhuận thu được do việc thay đổi cây trồng và canh tác không khác bao nhiêu so với trước đó, vì vậy cho dù người nông dân nhận thức được lợi ích thật sự của công cuộc "cải tổ", họ cũng không có mấy động lực để tiến hành chương trình này.

Hạn hán trong thời gian diễn ra Dust Bowl được cho là sự kiện thiên tai gây thiệt hại kinh tế đứng hàng thứ hai trong lịch sử nước Mỹ, chỉ đứng sau đợt hạn hán nặng trong giai đoạn 1988-89. Do thiệt hại diễn ra ở quy mô quá lớn, ảnh hưởng cộng hưởng với cuộc Đại Khủng hoảng, giai đoạn phục hồi kinh tế nhanh chóng sau đó khi Chiến tranh thế giới thứ hai bắt đầu, và các phương pháp thống kê thiệt hại kinh tế thời đó còn sơ khai, việc định lượng chính xác những hậu quả kinh tế của Dust Bowl là rất khó khăn. Tuy nhiên, một điều chắc chắn là sự kiện này đã góp phần đáng kể gây ra tình trạng hỗn loạn quy mô lớn ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế cả nước Mỹ. Thiệt hại nặng nề do những trận hạn hán liên quan đến _Dust Bowl_là nguyên nhân chính khiến chính phủ Hoa Kỳ gấp rút thi hành gói cứu trợ kinh tế cho vùng Đại Bình nguyên trong thập niên 1930.

Ảnh hưởng cộng hưởng của sự kiện Dust Bowl và Đại khủng hoảng cho thấy mặt trái của chủ nghĩa thầu khoán, khi người kinh doanh chỉ chăm chăm chú ý đến lợi ích nhỏ lẻ, cá nhân, ngắn hạn và bỏ mặc nguy cơ về thiệt hại lâu dài cho cả cộng đồng do mình gây ra. Người dân ở các vùng Texas, Oklahoma và các vùng khác của Đại Bình nguyên phải bồng bế nhau đến các vùng lân cận. Hơn 500.000 người trở nên vô gia cư. Hơn 350 ngôi nhà bị phá hủy sau mỗi trận bão. Nhiều người phá sản, nợ nần phải thế chấp nhà cửa, nhiều người khác bỏ nhà ra đi vì không thể nào sinh sống được tại địa phương. Trong giai đoạn đỉnh cao của việc "mất nhà cửa" năm 1933-34, một phần 10 số trang trại phải chuyển đổi người sở hữu, một nửa trong số trường hợp đó là do bị bắt buộc. Ngay cả gói cứu trợ của chính phủ hầu trong nhiều trường hợp cũng không giúp họ bám trụ lại được. Nhiều người khác, nhất là cư dân vùng Kansas và Oklahoma, chết vì suy dinh dưỡng hoặc viêm phổi do bụi, khiến dân số nhiều nơi sụt xuống một cách thê thảm: vùng ngoại ô xung quan Boise, Oklahoma mất đến 40% dân cư do hậu quả của sự kiện này. Cho đến năm 1940, 2,5 triệu người phải di tản khỏi vùng Đại Bình nguyên; trong đó 200.000 người di tản đến California. Chỉ trong vòng 1 năm, bang này đã phải tiếp nhận 86.000 người di cư. Con số này thậm chí còn lớn hơn số di dân đến Cali vào năm 1849 do ảnh hưởng của cơn sốt tìm vàng. Nhiều gia đình phải bỏ quê hương vì nhà cửa và ruộng đất của họ đã bị ngân hàng tịch thu để thế nợ. Người di cư thường bị gọi dưới các biệt danh "Okie" (người gốc Oklahoma), "Arkie" (Arkansas), "Texies" (Texas), mặc dù nhiều người trong số họ cũng có nguồn gốc từ các bang khác như Missouri, Iowa, Nebraska, Kansas, Colorado, New Mexico. Tất nhiên, một phần trong số dân di cư chỉ phải di chuyển đến các thành phố lân cận hay các vùng gần đó mà thôi. Dầu sao, đợt di cư khổng lồ này khiến tỉ lệ dân "bản địa" so với dân nhập cư ở các bang vùng Đại Bình nguyên trở nên gần bằng nhau.

James N. Gregory đã nghiên cứu các số liệu ghi nhận bởi Cục Thống kê Hoa Kỳ cùng nhiều khảo sát khác và ông phát hiện ra nhiều điều bất ngờ. Ví dụ, năm 1939 khi Cục Kinh tế Nông nghiệp khảo sát về nơi ở của 116.000 gia đình di cư đến California trong thập niên 1930, họ nhận thấy chỉ có 43 phần trăm của những cư dân miền Tây Nam bắt tay vào canh tác nông nghiệp ngay khi họ đặt chân tới vùng đất mới. Gần một phần ba dân di cư là các chuyên gia hoặc các "công nhân cổ trắng" tay nghề cao. Thật vậy, kinh tế suy sụp khiến nhiều thành phần cư dân khác đi cùng những nông dân phá sản tới California, trong đó có nhiều thầy giáo, luật sư, doanh nhân nhỏ cùng với gia đình của họ. Sau khi kinh tế phục hồi, nhiều người trở về nguyên quán, nhưng nhiều người khác đã định cư hẳn tại nơi ở mới. Khoảng 1/8 dân số California là người "gốc Oklahoma".

Cuộc sống của những di dân này vô cùng khó khăn ở nơi ở mới. Ví dụ, các điền trang ở California đều thuộc quyền sở hữu của các công ty lớn, sử dụng các công nghệ rất hiện đại và các loại cây trồng mới mà người di dân chưa thể quen cách sử dụng, vì vậy việc làm nông, canh tác ở nơi ở mới là điều gần như không tưởng. Họ đi làm thuê trong các vườn nho và bông với mức lương bèo bọt, khoảng từ 0,75 đến 1,25 Mỹ kim mỗi ngày, sống trong các túp lều tạm bợ với giá thuê 0,25 Mỹ kim/ngày, và phải mua thực phẩm với giá cắt cổ. Số di dân nhiều mà công việc thì ít, và họ còn phải cạnh tranh với các nhân công gốc México, khiến 120.000 người Mễ phải hồi hương trong thập niên 1930. Thêm vào đó, giới chủ đồn điền còn phái cảnh sát tới đánh đập, đàn áp, đốt phá nhà cửa của dân di cư, vu khống họ là cộng sản. Điện là con số không, nước bẩn thỉu, hệ thống xử lý rác rưởi không có, môi trường sống mất vệ sinh, các loại thương hàn, sốt rét, đậu mùa, lao mặc sức hoành hành. Về sau, người di dân đã tự dựng được các lán lều ọp ẹp từ rác và phế liệu, và dần dần xây được các căn nhà tử tế, tìm cách hòa nhập vào cộng đồng địa phương, tuy nhiên họ vẫn tiếp tục chịu sự kì thị và bất công trong một thời gian tiếp theo nữa. Theo khung kế hoạch của chương trình Chính sách Mới (New Deal), Quốc hội thông qua Đạo luật Cấp phát đất Nội địa và Bảo tồn Đất trồng (Soil Conservation and Domestic Allotment Act) vào năm 1936, yêu cầu các chủ đất chia sẻ phụ cấp của nhà nước với những công nhân làm việc trong ruộng vườn của họ, và việc trả phụ cấp sẽ do đích thân Quốc hội quyết toán nhằm bảo đảm cho việc bảo tồn đất trồng. Theo đạo luật, sự bình đẳng về giá cả nông sản và các mặt hàng mà người nông dân mua sẽ bị thay thế bởi sự bình đẳng về thu nhập của nông dân so với những người không làm nông. Như vậy, mục tiêu chính ở đây là tái cơ cấu lại tỉ lệ giữa sức mua của thu nhập thực trên đầu người trong lãnh vực nông nghiệp với thông số tương tự của những người không làm nông vốn tồn tại trong giai đoạn 1909-14.

Ngoài ra, Tập đoàn Điều chỉnh Thặng dư Liên bang (Federal Surplus Relief Corporation - FSRC) được thành lập vào năm 1933, khi dư luận phản ứng dữ dội về việc cơ quan chức năng cho tiêu hủy 6 triệu con heo và nhiều nông sản khác để tạo tình trạng khan hiếm nông sản nhằm nâng giá các mặt hàng này lên. Những vật nuôi kể trên thay vì tiêu hủy thì sẽ được giết mổ, rồi thịt của chúng được phân phối cho những người nghèo và những người đang chịu nạn đói:

FSRC đã phân phối các nông sản tới các tổ chức cứu trợ. Táo, đậu, thịt bò hộp, bột mì và thịt lợn đã được chia cho người dân thông qua các kênh cứu trợ, về sau có cả thêm các sản phẩm từ vải sợi bông. Ngoài ra, 3 triệu tấn than đá cũng đã được chuyển tới người thất nghiệp ở Wisconsin vào tháng 12 năm 1933 và vào tháng 9 năm 1934 có lương thực được phân phối cho người thất nghiệp ở 30 bang.

Năm 1934, 525 triệu Mỹ kim được chi ra để cho vay khẩn cấp cho nông dân gặp nạn, bao gồm các gói cứu trợ như chi phí lương thực cho gia súc, cung cấp việc làm cho nông dân (xây hồ chứa nước, trồng cây chắn bão,...), vay vốn để mua giống cây trồng mới và xây dựng ruộng bậc thang chống xói mòn.

Tổng thống Roosevelt cũng đã cho cơ quan bảo tồn tài nguyên tên là Binh đoàn Bảo tồn Dân sự (Civilian Conservation Corps - CCC) xây dựng Vành đai chắn gió Đại Bình nguyên một vành đai sinh thái quy mô cực lớn bao gồm hơn 200 triệu cây trồng chạy từ Canada tới Abilene, Texas nhằm ngăn chặn gió bụi, giữ nước và giữ đất không bị thất thoát đi. CCC cũng bắt đầu hướng dẫn nông dân các biện pháp canh tác mới nhằm bảo tồn đất trồng và chống xói mòn, tỉ như luân canh, trồng dải bao, cày bao, xây dựng ruộng bậc thang và một số phương pháp khác. Năm 1937, chính quyền liên bang bắt đầu tiến hành các biện pháp cưỡng ép người nông dân trong vùng bị ảnh hưởng phải sử dụng các biện pháp canh tác mới, và trợ cấp 1 Mỹ kim/mẫu Anh cho những nông dân gặp khó khăn trong việc thay đổi canh tác. Đến năm 1938, nỗ lực bảo tồn đất đai quy mô lớn đã gặt hái được thành quả khi số đất đai bị thổi bay giảm đến 65 phần trăm. Tuy nhiên, các trang trại vẫn không đủ khả năng cho ra một lượng nông sản lớn để cung cấp đời sống khấm khá. Cuối cùng, vào mùa thu năm 1939, mưa quay trở lại vùng Đại bình Nguyên, chấm dứt một thập kỉ hạn hán và gió bụi.

Những chương trình cải tổ áp dụng trong thời gian khó khăn đó đã giúp duy trì mối quan hệ tốt giữa nông dân với chính phủ Liên bang.

Một báo cáo năm 1935 của Ủy ban Hạn hán Tổng thống đã trình bày về gói cứu trợ của chính phủ trong thời gian 1934-35, bao gồm điều kiện địa phương, phương pháp cứu trợ, tổ chức, tài chính, và kết quả. Nhiều hiện vật cũng được ghi nhận trong báo cáo này.

Ảnh hưởng trong văn hóa, nghệ thuật

thumb|Bà [[Florence Owens Thompson, người phụ nữ trong bức ảnh nổi tiếng Destitute Pea Pickers in California. Mother of Seven Children. chụp bởi Dorothea Lange.]] Thảm họa Dust Bowl được nhiều nhà văn, nhạc sĩ, nhiếp ảnh gia ghi nhận lại. Nhiều người trong số đó được các cơ quan chính phủ Hoa Kỳ tuyển dụng trong thời kỳ Đại Khủng hoảng kinh tế. Cục Quản trị An ninh Nông trại đã tuyển mộ nhiều nhiếp ảnh gia để ghi nhận lại những sự kiện xảy ra trong thời gian đó, điều này khiến sự nghiệp của nhiều nghệ sĩ được thăng tiến mạnh mẽ, tỉ như Dorothea Lange. Dorothea đã chụp lại những hình ảnh mang tính biểu tượng về những cơn bão bụi cũng như những người di dân, trong đó bức ảnh nổi tiếng nhất tên là Destitute Pea Pickers in California. Mother of Seven Children. miêu tả bà Florence Owens Thompson, một người phụ nữ với cái nhìn lo lắng và mệt mỏi đang ôm ba đứa con nhỏ của mình trong tay. Bức ảnh này đã gi nhận lại sự kinh hoàng của những cơn bão bụi và khiến nhiều người chú ý đến thảm họa này của quốc gia.

Đời sống cùng cực của người di dân trong sự kiện Dust Bowl đã được tiểu thuyết gia John Steinbeck miêu tả trong hai tiểu thuyết "của Chuột và Người" (Of Mice and Men - 1937) và "Chùm nho uất hận" (The Grapes of Wrath - 1939).. Nhạc sĩ nhạc đồng quê Woody Guthrie, cũng sáng tác các nhạc phẩm lấy cảm hứng từ sự kiện Dust Bowl và Đại Khủng hoảng.

Những di dân gốc vùng Đại Bình nguyên đã đem âm nhạc của họ tới những vùng đất mới. Đặc biệt, những du dân gốc Oklahoma xuất thân từ vùng thôn quê miền Nam đã mang những điệu nhạc đồng quê tới các khu vực khác, tỉ như California. Dòng nhạc Bakersfield hình thành khi nhạc đồng quê vùng Đại Bình nguyên du nhập vào các khu vực khác và thúc đẩy sự bùng nổ của các phòng khiêu vũ nhạc đồng quê cho tới tận thành phố Los Angeles ở miền Nam.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|Một người nông dân cùng hai đứa con chứng kiến một cơn bão gió bụi đang quét qua. Ảnh chụp tại [[Quận Cimarron, Oklahoma, 1936. Tác giả: Arthur Rothstein]] Sự kiện **_Dust Bowl_**, còn gọi
ĐẠI SUY THOÁI. Thảm họa môi trường Dust Bowl. Cú đánh kép ấy đã mở đầu cuộc di dân gây chấn động nước Mỹ thập niên 30, khi hàng vạn kiếp người phải dứt áo
ĐẠI SUY THOÁI. Thảm họa môi trường Dust Bowl. Cú đánh kép ấy đã mở đầu cuộc di dân gây chấn động nước Mỹ thập niên 30, khi hàng vạn kiếp người phải dứt áo
thumb|So sánh tuổi dân số giữa [[quận Pocahontas, Iowa và quận Johnson, Iowa thành thị, minh họa sự di dân của thanh niên (màu đỏ) đến các trung tâm đô thị ở Iowa]] **Di dân
**Texas** () là tiểu bang đông dân thứ hai và có diện tích lớn thứ hai của Hoa Kỳ và là tiểu bang lớn nhất trong số 48 tiểu bang tại Hoa Kỳ lục địa.
[[Hồ Tchad trong một bức ảnh vệ tinh năm 2001, với vùng nước màu xanh lam. Từ thập kỷ 1960, hồ đã co lại, giảm 95% diện tích.]] **Sa mạc hóa** hay **hoang mạc hóa**
**Woodrow Wilson** "**Woody**" **Guthrie** (14 tháng 7 năm 1912 – 3 tháng 10 năm 1967) là ca sĩ, nhạc sĩ người Mỹ, nổi tiếng với hàng trăm ca khúc chính trị, mang âm hưởng truyền
**John Ernst Steinbeck, Jr.** (27 tháng 2 năm 1902 – 20 tháng 12 năm 1968) là một tiểu thuyết gia người Mỹ được biết đến như là ngòi bút đã miêu tả sự đấu tranh
nhỏ|Sa mạc [[Sa mạc Sahara|Sahara tại Algérie]] nhỏ|Sa mạc [[Sa mạc Gobi|Gobi, chụp từ vệ tinh]] [[Ốc đảo tại Texas, Hoa Kỳ]] Một cảnh [[sa mạc Sahara]] **Hoang mạc** là vùng có lượng mưa rất
**_Chùm nho uất hận_** (tiếng Anh: _The Grapes of Wrath_), còn có tên trên bản dịch là **_Chùm nho thịnh nộ_** là tiểu thuyết của văn hào John Steinbeck, bao gồm 30 chương, phản ánh
**Oklahoma** (phát âm như **Uốc-lơ-hâu-mơ**) ( _òɡàlàhoma_, ) là một tiểu bang nằm ở miền nam Hoa Kỳ. Với dân số 3,6 triệu người vào năm 2007 và diện tích 177.847 km², Oklahoma là tiểu bang
**Thế hệ im lặng** hay **Silent generation** là thế hệ những người được sinh ra vào khoảng thời gian từ những năm 1928 đến 1945. Thế hệ im lặng còn có tên gọi khác là
**Kenneth Lauren "Ken" Burns**(sinh ngày 29 tháng 7 năm 1953) Các phim tài liệu Burns đã được đề cử cho hai giải Oscar và đã giành giải Emmy. ## Điện ảnh * _Brooklyn Bridge_ (1981)
**Mùa bão Đại Tây Dương 2005** là mùa bão Đại Tây Dương hoạt động mạnh nhất trong lịch sử, cho đến khi kỷ lục này bị phá vỡ 15 năm sau vào năm 2020. Mùa
**Tiếng Anh Nam Hoa Kỳ** hay **tiếng Anh (miền) Nam nước Mỹ** là một phương ngữ khu vực hoặc tập hợp các phương ngữ của tiếng Anh Mỹ được nói khắp miền Nam Hoa Kỳ,
**Jerry Norman** sinh ngày 16 tháng 7 năm 1936 tại Watsonville, California. Gia đình ông là những người nông dân nhập cư đã chạy trốn khỏi điều kiện Dust Bowl ở Oklahoma vào giữa những
**Queen** là một ban nhạc rock người Anh được thành lập tại London vào năm 1970. Đội hình kinh điển của họ bao gồm Freddie Mercury (hát chính, piano), Brian May (guitar, hát), Roger Taylor
**William J.** "**Willem**" **Dafoe** (sinh ngày 22 tháng 7 năm 1955) là một diễn viên người Mỹ. Ông là người nhận được nhiều giải thưởng khác nhau, bao gồm cả Cúp Volpi cho Nam diễn
**Paris Whitney Hilton** (sinh ngày 17 tháng 2 năm 1981) là ngôi sao truyền hình thực tế, doanh nhân, người mẫu và ca sĩ người Mỹ. Cô là cháu cố của Conrad Hilton, người sáng
**Công ty World Wrestling Entertainment** (Đấu vật Giải trí Thế giới, gọi tắt là **WWE**) là một công ty hoạt động trong các lĩnh vực giải trí, thể thao và truyền thông đại chúng (tập
**James Francis Ivory** (sinh ngày 7 tháng 6 năm 1928) là một đạo diễn, nhà sản xuất và nhà biên kịch phim người Mỹ. Trong nhiều năm, ông đã làm việc nhiều lần với nhà