✨Đường mòn Sihanouk
Đường mòn Sihanouk là một hệ thống cung cấp hậu cần ở Campuchia được Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) và quân du kích Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (MTDTGPMNVN) sử dụng trong chiến tranh Việt Nam (1960–1975). Từ năm 1966 đến năm 1970, hệ thống này hoạt động theo cùng một cách và phục vụ các mục đích tương tự như đường mòn Hồ Chí Minh (mà quân Bắc Việt gọi chính thức là Đường Trường Sơn) được biết đến nhiều hơn, chạy qua phần đông nam của Vương quốc Lào. Cái tên này có nguồn gốc từ Mỹ, vì Bắc Việt coi hệ thống này là một phần không thể thiếu của tuyến đường tiếp tế nêu trên. Những nỗ lực của Mỹ nhằm ngăn chặn hệ thống này bắt đầu vào năm 1969.
Kết nối Sihanoukville (1966–1968)
Hoàng thân Norodom Sihanouk đã cai trị Campuchia kể từ khi ông giành được độc lập từ tay người Pháp vào ngày 9 tháng 11 năm 1953. Ông đã hoàn thành nhiệm vụ này bằng cách vận động chính trị giữa cả cánh tả và cánh hữu để đạt được điều mà không một nhà cai trị hay nhóm chính trị nào khác ở Đông Dương làm được, một quá trình chuyển đổi tương đối không đổ máu dẫn tới độc lập. Trong suốt mười năm tiếp theo, khi mà xung đột ở nước láng giềng Lào và Việt Nam Cộng hòa nóng lên, Sihanouk đã cố gắng duy trì sự cân bằng chính trị mong manh trong nước của mình đồng thời duy trì tính trung lập của quốc gia mình (được bảo đảm từ Hội nghị Geneva năm 1954 kết thúc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất).
Sihanouk tin rằng chiến thắng của cộng sản ở Đông Nam Á là không thể tránh khỏi và quân đội Campuchia không có khả năng đánh bại Bắc Việt, ngay cả khi có sự hỗ trợ của Mỹ. Nếu Campuchia (và chế độ của ông) muốn sống sót, ông sẽ phải mặc cả với chính đối thủ tiềm tàng. Ngày 10 tháng 4 năm 1965, ông đã cắt đứt quan hệ ngoại giao với Mỹ và chuyển sang cánh tả về mặt chính trị. Động thái này không phải là không có lý do. Để có được sự ủng hộ của nước ngoài, cả về mặt kinh tế lẫn chính trị, Sihanouk bèn quay sang Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Một trong những điều khoản của thỏa thuận giữa Sihanouk và Thủ tướng Chu Ân Lai là Campuchia cho phép Bắc Việt sử dụng biên giới phía đông trong nỗ lực thống nhất hai nước Việt Nam.
Vào những ngày đầu trong chiến tranh Việt Nam, Bắc Việt đã cung cấp cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng ở miền Nam bằng hai phương pháp. Đầu tiên là mở rộng Đường mòn Hồ Chí Minh về phía nam vào khu vực ngã ba biên giới Lào/Campuchia/Việt Nam Cộng hòa. Đường mòn này vốn là một mê cung gồm toàn những con đường bộ, hệ thống giao thông đường sông và trạm dừng, không ngừng được mở rộng và cải thiện. Nó phục vụ như một mạch máu hậu cần, về cả nhân lực và vật lực, dành cho nỗ lực chiến tranh của Bắc Việt chống lại Việt Nam Cộng hòa. Phương pháp thứ hai là vận chuyển vật tư bằng đường biển. Ước tính lưu lượng giao thông đường biển này lên tới 70%. Nó được thực hiện do khối lượng vật liệu có thể được vận chuyển bằng đường biển cao hơn so với đường bộ.
Trong suốt năm 1965, QĐNDVN đã bắt đầu xây dựng các tuyến tiếp tế mới để nối các đoạn của Đường mòn Hồ Chí Minh chạy qua miền nam Lào vào tận Campuchia. Năm sau, tình báo Mỹ phát hiện ra rằng một con đường mới (Đường 110), xuất phát từ Campuchia, hiện đã được nối với những con đường ở Lào. Việc phát hiện ra Đường 110 là nguồn gốc của thuật ngữ "Đường mòn Sihanouk", nhưng nó nhanh chóng bao trùm toàn bộ hệ thống hậu cần của Campuchia. Nỗ lực hậu cần trên bộ mới của QĐNDVN và hệ quả tất yếu trên đường biển của nó hiện được chỉ đạo bởi Đơn vị K-20 của QĐNDVN, đóng tại thủ đô Phnôm Pênh của Campuchia. K-20 hoạt động dưới vỏ bọc một công ty thương mại do chủ người Việt nắm quyền sở hữu.
Mặc dù giới chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn và các chính khách ở Washington ngày càng nhận thức được sự sắp xếp này trong giai đoạn 1966–1967, họ từ chối can thiệp một cách công khai do những hậu quả chính trị của việc tiến hành chiến dịch quân sự chống lại một quốc gia trung lập và tham vọng của Sihanouk. Washington vẫn còn hy vọng mở lại cuộc đối thoại với Sihanouk và kiềm chế bất kỳ hành động nào có thể khiến ông hoàng này xa lánh hơn nữa.
Tuy nhiên, các hoạt động bí mật lại là một vấn đề khác. Một kết quả của nỗ lực xây dựng đường sá ngày càng tăng của Bắc Việt ở Campuchia là Hoa Kỳ cũng tăng cường chống lại hệ thống đường mòn ở Lào bằng cách tung ra cuộc tấn công B-52 Stratofortress đầu tiên vào hệ thống hậu cần vào ngày 12 tháng 12 năm 1965. Tháng 4 năm 1967, Tổng hành dinh quân đội Mỹ tại Sài Gòn cuối cùng đã nhận được sự ủy quyền cho triển khai Daniel Boone, chiến dịch thu thập thông tin tình báo do Đoàn Nghiên cứu và Quan sát Việt Nam, Bộ Tư lệnh Viện trợ Quân sự Mỹ (MACV-SOG) bí mật thực hiện.
Những toán trinh sát "vượt rào" vào Campuchia tiếp nhận mệnh lệnh nghiêm ngặt không được tham chiến và bí mật thu thập thông tin tình báo về các căn cứ và hoạt động của QĐNDVN. Kết quả của nỗ lực này là Dự án Vesuvius, qua đó giới chỉ huy Mỹ đối chiếu thông tin tình báo thu thập được về hành vi của QĐNDVN/QGPMNVN đã vi phạm tính trung lập của Campuchia và trình bày cho Sihanouk với hy vọng thay đổi quan điểm của ông ta.
Chiến dịch Menu (1969–1970)
Kể từ lúc Tổng thống Richard M. Nixon đắc cử năm 1968 và việc Mỹ công bố chính sách mới về Việt Nam hóa năm 1969, quan hệ của Mỹ với Campuchia bắt đầu thay đổi. Mục tiêu của Mỹ bây giờ là câu giờ cho đồng minh Việt Nam Cộng hòa và yểm trợ cho việc rút quân của chính họ. Ngày 11 tháng 5 năm 1969, Sihanouk hoan nghênh việc quay trở lại quan hệ ngoại giao toàn diện với Hoa Kỳ. Trong khoảng thời gian này, toàn bộ chương trình được giữ bí mật với Quốc hội, người dân Mỹ và thật ngạc nhiên là với chính Không quân Mỹ. Với sự ưng thuận của hoàng thân, đơn vị này đã mua 55.000 tấn gạo hàng năm từ chính phủ và 100.000 tấn khác trực tiếp từ nông dân Campuchia.
Dưới sự lãnh đạo của Lon Nol (và với sự hỗ trợ của Mỹ), ANK đã được mở rộng và tổ chức lại thành Quân đội Quốc gia Khmer (FANK) và sau đó liền tung ra các cuộc tấn công chống lại QĐNDVN. Hà Nội phản ứng bằng cách phát động Chiến dịch X, một chiến dịch nhằm mở rộng các vùng đệm xung quanh các tuyến liên lạc của mình. Ngày 29 tháng 4 năm 1970, vụ đánh bom đầu tiên của Chiến dịch Patio diễn ra. Giống như Menu, các cuộc không kích chiến thuật này đều được giữ bí mật chặt chẽ. CIA ước tính rằng việc thay thế các nguồn cung cấp bị mất trong cuộc tấn công sẽ chỉ mất 75 ngày để hoàn thành.
Giai đoạn 1971–1975
Như đã xảy ra vào cuối cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân năm 1968, mạng lưới hậu cần của Bắc Việt đã được cải thiện và mở rộng sau đợt xâm nhập này. Do mất quyền tiếp cận các bến cảng của Campuchia, Hà Nội bèn thành lập Đoàn Vận tải 470 để nắm quyền kiểm soát và điều phối các hoạt động tiếp tế cho Campuchia. Tuyến đường mới rẽ về phía tây từ Mường Mây, cực nam nước Lào, song song với sông Kong vào Campuchia. Cuối cùng, mạng lưới này mở rộng qua Siem Prang và đến sông Mê Kông gần Stung Treng. Bước tiếp theo là chiếm thị trấn Kratié, ở phía đông miền trung Campuchia, vào ngày 5 tháng 5. Đoàn 470 đã dọn sạch dân cư khỏi thị trấn sông Mê Kông và biến nó thành trụ sở hành chính. Các căn cứ của QĐNDVN ở phía đông được Kratié tiếp tế trong khi nhân lực và quân nhu tiến đến vùng đồng bằng sông Cửu Long của miền Nam Việt Nam hiện đang vòng về phía tây, xung quanh Phnôm Pênh, qua chân đồi của Dãy núi Cardamom rồi lại về phía đông để vượt biên giới.
Ngày 20 tháng 8 năm 1971, Tổng thống Lon Nol đã phát động Chiến dịch Chenla II trong nỗ lực mở rộng liên lạc giữa Phnôm Pênh và thành phố lớn thứ hai của đất nước là Kompong Thom. Hai thành phố này đã bị Khmer Đỏ cô lập trong hơn một năm. FANK ban đầu thành công, nhưng Khmer Đỏ được QĐNDVN hậu thuẫn đã phát động một cuộc phản công và tiêu diệt lực lượng chính phủ nơi đây. Đến năm 1972 FANK bị tổn thất rất nhiều quân, mạng lưới đường bộ và đường sắt bị phá hủy và lạm phát lan tràn. Sản lượng lúa thu hoạch giảm từ 3,8 triệu tấn năm 1969 xuống còn 493.000 tấn năm 1973. Sự ủng hộ của nhân dân Campuchia đối với cuộc chiến chống lại Bắc Việt và quân nổi dậy đã hoàn toàn tan biến. Người Mỹ, đang đàm phán với Bắc Việt, đã đề xuất một lệnh ngừng bắn trên toàn Đông Dương như một phần của giải pháp cuối cùng cho cuộc xung đột tại Việt Nam Cộng hòa.
Ngày 28 tháng 1 năm 1973, ngày Hiệp định Hòa bình Paris có hiệu lực, Lon Nol tuyên bố ngừng bắn đơn phương, điều mà Khmer Đỏ đã nhanh chóng phớt lờ, cho rằng đó là "một sự lừa dối do Đế quốc Mỹ và các đồng minh của họ tạo ra." Sang tháng 4 cùng năm, chính Phnôm Pênh đã được cứu khỏi bị chiếm chỉ nhờ một nỗ lực ném bom lớn do máy bay Mỹ thực hiện. Đây là sự kết thúc của sự hỗ trợ trên không của Hoa Kỳ, chiếc máy bay Mỹ cuối cùng rời khỏi không phận Campuchia vào ngày 15 tháng 8. Từ đầu Chiến dịch Breakfast, Không quân Mỹ đã trút 539.129 tấn bom xuống Campuchia, trong đó 257.465 tấn đã được thả trong sáu tháng cuối cùng của chiến dịch.
Vào ngày đầu năm mới 1975, Khmer Đỏ phát động cuộc tấn công cuối cùng chống lại Cộng hòa Khmer. Nỗi thống khổ của người dân Campuchia cũng như sự từ chức của Lon Nol đều không thể ngăn chặn hay làm chậm bước tiến công của Khmer Đỏ.