✨Derbent

Derbent

Derbent (tiếng Nga: Дербент; tiếng Lezgian: Дербенд; tiếng Azerbaijan: Dərbənd; tiếng Ba Tư: دربند Darband) là một thành phố của Liên bang Nga, thuộc nước cộng hòa tự trị Dagestan. Nó là thành phố xa nhất về phía nam của Liên bang Nga và là thành phố có tầm quan trọng thứ hai tại Dagestan. Dân số: 101.031 (điều tra dân số năm 2002) và năm 2006 là khoảng 106.000 người. Người Lezgi là nhóm dân tộc chính chính ở đây, tiếp theo là người Azerbaijan và người Tabasaran.

Thông thường nó được coi là các cổng Alexander truyền thuyết, Derbent cũng được coi là thành phố cổ nhất của Nga. Từ thời cổ đại thì giá trị của khu vực này như là cổng vào khu vực Kavkaz đã được hiểu rõ và Derbent có các công trình xây dựng mà các nhà khảo cổ học đánh giá là trên 5.000 năm tuổi (tính đến năm 2006). Như là kết quả của tính đặc thù địa lý này nên thành phố đã phát triển giữa hai tường thành, kéo dài từ các dãy núi xuống tới biển. Theo thời gian, các dân tộc khác nhau đã đặt cho thành phố này các tên gọi khác nhau, nhưng tất cả đều có liên hệ với nghĩa 'cổng'.

Địa lý

Thành phố này được xây dựng gần bờ tây của biển Caspi, về phía nam sông Samur, trên sườn của dãy núi Tabasaran (một phần của dãy núi Kavkaz). Derbent có đường giao thông thuận tiện, với bến cảng riêng, đường sắt và đường bộ chạy về phía nam nối với Baku, cũng như về phía bắc tới Rostov-na-Dony, hai thành phố lớn trong khu vực.

Derbent có một vị trí chiến lược duy nhất trong khu vực Kavkaz: thành phố này nằm trên một dải đất bằng hẹp (khoảng 3 km) giữa biển Caspi và dãy Kavkaz, kiểm soát việc giao thông đường bộ giữa đông nam châu Âu và Trung Đông. Về phía bắc của thành phố là tượng đài Kirk-lar, hay 40 vị anh hùng, những người đã ngã xuống trong công cuộc phòng thủ Dagestan chống lại người Ả Rập năm 728. Ở phía nam là điểm xa nhất về phía biển của tường thành Kavkaz (dài 50 m), còn được gọi là Tường thành Alexander, ngăn chặn lối đi qua rất hẹp của Cổng Sắt hay Cổng Caspi (Portae Athanae hay Portae Caspiae). Tường thành này khi còn nguyên vẹn có chiều cao 9 m (29 ft) và chiều dày khoảng 3 m (10 ft), và với các cổng sắt và hàng loạt các chòi quan sát, tạo thành một hàng rào phòng ngự có giá trị trên biên giới với Ba Tư.

Lịch sử

Quang cảnh thành phố nhìn từ pháo đài Naryn-Kala, thập niên 1910.

Sự định cư đông đúc đầu tiên tại khu vực Derbent có niên đại vào khoảng thế kỷ 8 TCN. Cho đến thế kỷ 4 thì nó là một phần của Albania Kavkaz (Aghbania), và thông thường được coi là Albana, kinh đô của vương quốc này. Tên gọi ngày nay của thành phố, một từ có gốc từ tiếng Ba Tư (دربند Darband) nghĩa là "các cổng đóng", đã bắt đầu được sử dụng vào cuối thế kỷ 5 hoặc đầu thế kỷ 6, khi thành phố này được Kavadh I của vương triều Sassanid thuộc Đế chế Ba Tư tái thành lập. Các tường thành và thành quách được cho là xây dựng vào thời con trai của Kavadh là Khosrau I. Derbent trở thành một tiền đồn quân sự và một hải cảng mạnh của đế chế Sassanid. Trong thế kỷ 5 và 6 thì Derbent cũng trở thành một trung tâm quan trọng trong việc truyền bá các niềm tin Ki tô giáo trong khu vực Kavkaz.

Trong thập niên 630 thành phố này đã bị hãn quốc Khazar xâm chiếm. Năm 654 Derbent đã bị người Ả Rập nắm giữ, những người này đã chuyển đổi nó thành một trung tâm hành chính quan trọng và truyền bá các niềm tin Hồi giáo vào trong khu vực này. Khaliph (vua Hồi giáo) Harun al-Rashid đã từng sống ở Derbent, và đưa thành phố này trở thành một nơi có danh tiếng về nghệ thuật và thương mại. Theo các nhà sử học Ả Rập thì Derbent với dân số trên 50.000 người đã từng là thành phố lớn nhất của khu vực Kavkaz trong thế kỷ 9. Trong thế kỷ 10, với sự sụp đổ của vương quốc Hồi giáo của người Ả Rập thì Derbent đã trở thành kinh đô của một tiểu vương quốc Ả Rập độc lập. Tiểu vương quốc này thường có những cuộc chiến tranh với quốc gia Ki tô giáo láng giềng là Sarir, nhưng thường là thua trận nên Sarir thỉnh thoảng có thể thao túng các hoạt động chính trị của Derbent, tuy nhiên điều này đã kết thúc với sự tan rã của Sarir trong thế kỷ 12. Về tổng thể, tiểu vương quốc này đã phồn thịnh cho đến khi người Mông Cổ xâm chiếm nó vào năm 1239.

Trong thế kỷ 14 nó đã bị các bộ lạc du cư của lãnh chúa của người Tatar là Timur cướp bóc. Năm 1437 nó rơi vào sự kiểm soát của Shirvanshahs. Trong thế kỷ 16 Derbent là nơi diễn ra các cuộc chiến giữa Thổ Nhĩ Kỳ và Ba Tư do vương triều Safavid cai trị. Vào đầu thế kỷ 17 thì Shah Safavid Abbas I đã đánh bại người Thổ Nhĩ Kỳ và lấy lại Derbent.

Năm 1722 trong chiến tranh Nga-Ba Tư Pyotr Đại Đế của Nga đã giành được thành phố này từ tay người Ba Tư, nhưng vào năm 1735 theo hiệp ước Gjandzhinskii thì Derbent lại rơi vào tay nhà nước Ba Tư, năm 1736 thì uy quyền của Nadir Shah một lần nữa lại được công nhận. Năm 1747 Derbent trở thành kinh đô của một hãn quốc cùng tên. Trong cuộc viễn chinh Ba Tư 1796 thành phố này lại bị lực lượng quân sự Nga dưới sự chỉ huy của V. A. Zubov chiếm đóng. Theo hiệp ước Gulistan ngày 24 tháng 10 (lịch cũ- lịch mới là 5 tháng 11) năm 1813 giữa Nga và Ba Tư thì Derbent trở thành một phần của đế chế Nga.

Một phần lớn tường thành và các đài quan sát còn được bảo quản tốt cho đến ngày nay. Các tường thành chạy tới biển, được xây dựng vào khoảng thế kỷ 6, dưới thời triều đại Sassanid. Thành phố này còn có một pháo đài cổ được bảo quản khá tốt là Narin-kala, chiếm một diện tích khoảng 45.000 m², được khép kín bằng các bức tường dày. Các điểm hấp dẫn về mặt lịch sử còn có các nhà tắm, các bể nước, các nghĩa trang cổ, các nhà trọ lớn, lăng mộ của một hãn vương thế kỷ 18 cũng như vài nhà thờ Hồi giáo: các công trình đáng chú ý nhất là pháp đình Ki tô giáo có từ thế kỷ 6, các nhà thờ Hồi giáo như Juma (với các trường học (madrash) thế kỷ 15); Kyrhlyar, Bala (thế kỷ 17) và Chertebe (thế kỷ 18).

Kinh tế và văn hóa

Thành phố này có các ngành công nghiệp như chế tạo máy móc, thực phẩm (thậm chí có cả ngành công nghiệp rượu!), dệt may, đánh bắt cá, vật liệu xây dựng và công nghiệp gỗ. Hạ tầng cơ sở giáo dục là khá tốt; ở đây có một trường đại học cũng như một vài trường kỹ thuật. Về mặt văn hóa, ở đây có nhà hát kịch Lezgi (nhà hát S. Stalsky). Khoảng 2 km từ thành phố là quần thể nhà nghỉ Chayka (chim mòng biển).

Derbent trên thực tế có thể coi là một viện bảo tàng lớn với các dãy núi nguy nga và biển cận kề, có tiềm năng lớn trong việc phát triển du lịch, được gia tăng thêm bởi sự xếp hạng của UNESCO cho pháo đài và thành phố cổ như là Di sản thế giới vào năm 2003. Tuy nhiên, sự bất ổn trong khu vực đã cản trở rất lớn sự phát triển này.

Thành phố kết nghĩa

  • Tập tin:Flag of the United States.svg Yakima, Washington, Hoa Kỳ

Địa lý

Khí hậu

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Derbent** (tiếng Nga: _Дербент_; tiếng Lezgian: _Дербенд_; tiếng Azerbaijan: _Dərbənd_; tiếng Ba Tư: دربند _Darband_) là một thành phố của Liên bang Nga, thuộc nước cộng hòa tự trị Dagestan. Nó là thành phố xa
**Derbent** là một xã thuộc huyện Banaz, tỉnh Uşak, Thổ Nhĩ Kỳ. Dân số thời điểm năm 2010 là 1480 người.
**Derbent** là một xã thuộc huyện Salihli, tỉnh Manisa, Thổ Nhĩ Kỳ. Dân số thời điểm năm 2011 là 170 người.
**Derbent** là một thị trấn thuộc huyện Turgutlu, tỉnh Manisa, Thổ Nhĩ Kỳ. Dân số thời điểm năm 2011 là 2.125 người.
**Derbent** là một xã thuộc huyện Zara, tỉnh Sivas, Thổ Nhĩ Kỳ. Dân số thời điểm năm 2011 là 168 người.
**Derbent** là một xã thuộc thành phố Bartın, tỉnh Bartın, Thổ Nhĩ Kỳ. Dân số thời điểm năm 2011 là 386 người.
**Derbent** là một xã thuộc huyện Uşak, tỉnh Uşak, Thổ Nhĩ Kỳ. Dân số thời điểm năm 2010 là 931 người.
**Derbent** là một xã thuộc huyện Kadışehri, tỉnh Yozgat, Thổ Nhĩ Kỳ. Dân số thời điểm năm 2010 là 117 người.
**Derbent** là một xã thuộc thành phố Yozgat, tỉnh Yozgat, Thổ Nhĩ Kỳ. Dân số thời điểm năm 2010 là 483 người.
**Derbent** là một xã thuộc huyện Fındıklı, tỉnh Rize, Thổ Nhĩ Kỳ. Dân số thời điểm năm 2010 là 299 người.
**Derbent** là một xã thuộc huyện Kumru, tỉnh Ordu, Thổ Nhĩ Kỳ. Dân số thời điểm năm 2010 là 778 người.
**Derbent** là một xã thuộc huyện Tavşanlı, tỉnh Kütahya, Thổ Nhĩ Kỳ. Dân số thời điểm năm 2008 là 478 người.
**Derbent** là một xã thuộc huyện Bafra, tỉnh Samsun, Thổ Nhĩ Kỳ. Dân số thời điểm năm 2010 là 129 người.
**Derbent** là một huyện thuộc tỉnh Konya, Thổ Nhĩ Kỳ. Huyện có diện tích 333 km² và dân số thời điểm năm 2007 là 5819 người, mật độ 17 người/km².
**Cộng hoà Dagestan** (tiếng Nga: Респу́блика Дагеста́н; cũng được đánh vần là **Đa-ghét-xtan**) là một thực thể liên bang—cộng hoà—của Liên bang Nga, nằm ở vùng Bắc Kavkaz. Dagestan có sự đa dạng sắc tộc
**Lịch sử của Azerbaijan** là lịch sử của người Azerbaijan và các khu vực liên quan đến lịch sử, dân tộc và địa lý của người Azerbaijan. Dưới sự cai trị của Media và Ba
**Chiến tranh Nga-Ba Tư** giai đoạn 1722-1723, được sử sách nước Nga chép là **Chiến dịch Ba Tư của vua Pyotr Đại đế**, là một cuộc chiến tranh giữa Nga và Ba Tư (Iran), một
**Chiến dịch phòng thủ Mozdok–Malgobek** là hoạt động quân sự lớn của Cụm tác chiến Bắc Kavkaz của quân đội Liên Xô chống lại cuộc tấn công của Cụm tập đoàn quân A (Đức) qua
**Suleyman Abusaidovich Kerimov** (; ) (Lezgins), sinh ngày 12 tháng 03 năm 1966 ở Derbent, Cộng hòa xã hội tự trị Xô Viết Dagestan, Liên Xô, là đại biểu Quốc hội liên bang Nga. Ông
**Con Đường Tơ Lụa** (, ) là một hệ thống các con đường buôn bán nổi tiếng đã từ hàng nghìn năm nối châu Á với châu Âu (cách hay nói là giữa phương Đông
Dưới đây là danh sách các Di sản thế giới do UNESCO công nhận tại châu Âu. ## Albania (4) trái|nhỏ|Trung tâm lịch sử của [[Berat]] * Butrint (1992) * Trung tâm lịch sử của
**Agha Mohammad Khan Qajar** (; 1742–1797)‎ là hoàng đế khai quốc của nhà Qajar ở Iran. Ông nắm cai trị từ năm 1789 tới năm 1797 với tư cách là "shah" (có thể dịch là
nhỏ|Trận Poitiers qua bức họa "Bataille de Poitiers en Octobre 732" của [[Charles de Steuben]] **Sơ kỳ Trung cổ** là một thời kỳ lịch sử của châu Âu kéo dài từ năm 600 tới khoảng
Bản đồ biển Caspi, khu màu vàng chỉ vùng trũng Caspi. **Biển Caspi** là hồ nước lớn nhất trên thế giới tính về cả diện tích và thể tích. Diện tích mặt nước là 371.000
**Aleksandr I** (, Aleksandr Pavlovich; – ) là Sa Hoàng của đế quốc Nga từ 23 tháng 3 năm 1801 đến 1 tháng 12 năm 1825. Ông là người Nga đầu tiên trở thành Vua
**Huyện Derbentsky** () j là một huyện hành chính và tự quản (raion), một trong 41 huyện của Cộng hòa Dagestan, Nga.Huyện có diện tích . Trung tâm hành chính là Derbent không nằm trong
**Cinar** là một ngôi làng ở khu vực Derbent của Dagestan. Đây là khu vực định cư nông thôn thuộc huyện Derbentsky. Các hình thức Chinarskuyu nông thôn quản lý (bao gồm các làng Chinar
**Ganja** (, _Ҝәнҹә_ ) là thành phố lớn thứ hai của Azerbaijan, với dân số khoảng 325.200 người. Nó từng có cái tên **Elisabethpol** () vào thời kỳ thuộc Đế quốc Nga. Thành phố lấy
**Tốc Bất Đài** (tiếng Mông Cổ: _Sübügätäi_ or _Sübü'ätäi_; chữ Hán: 速不台, phiên âm: **Subetei**, **Subetai**, **Subotai**, **Tsubotai**, **Tsubetei**, **Tsubatai**; , _Sübeedei_; 1176–1248) là một danh tướng Mông Cổ bách chiến bách thắng dưới trướng
**Konya** là một thành phố tự trị (_büyük şehir_) đồng thời cũng là một tỉnh (_il_) nằm ở vùng Trung Anatolia của Thổ Nhĩ Kỳ. Với diện tích 41.001 km² và dân số thời điểm năm
**Hiệp ước Gulistan** (còn được viết là **Golestan**: tiếng Nga: Гюлистанский договор, chuyển tự Gyulistanskiy dogovor; tiếng Ba Tư: عهدنامه گلستان, chuyển tự Ahdnāme-ye Golestān) là một hiệp ước hòa bình được ký kết giữa
**Pyotr Stepanovich Kotlyarevsky** (chữ Nga: **Пётр Степа́нович Котляре́вский**) là một tướng lĩnh nổi tiếng của Đế quốc Nga đầu thế kỷ XIX. Ông đã chỉ huy đơn vị của mình giành những thắng lợi quan
**Tiểu Hạm đội Caspi** (tiếng Nga: _Каспийская флотилия_, hay **Đội tàu Caspi** là một đơn vị của Hải quân Nga hoạt động tại các vùng biển Caspi chịu trách nhiệm phòng thủ cho nước Nga
thumb|right|Các điểm cực của Nga Đây là danh sách các điểm cực và cao nhất tại Nga. Các điểm cực Bắc và cực Đông của Nga còn là điểm cực Bắc và cực Đông của
Dưới đây là danh sách** các triều đại hồi giáo Shi'a** ## Ai Cập và Bắc Châu Phi * Idrisid (780–985) * Nhà Fatimid (909–1171) the Fatimids were Ismaili, Shia. * Banu Kanz (1004–1412) ##
**Phục bích** (), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
**_gradonachalstvo_** () là một thực thể lãnh thổ hành chính đặc biệt của Đế quốc Nga gồm có một thành phố và lãnh thổ lân cận nó, nằm dưới quyền quản lý của một chức