✨Đập

Đập

[[Đập Krasnoyarsk, Nga]]

Đập nước là loại công trình nhằm ngăn dòng nước mặt hoặc ngăn dòng giữ nước từ các con sông, suối nhằm khai thác sử dụng tài nguyên nước. Các nhà máy thủy điện, nhà máy thủy điện tích năng lợi thường đi cùng với đập.

Lịch sử

Các đập cổ đại

Việc xây dựng đập sớm nhất là ở Mesopotamia và Trung Đông. Các đập được dùng để kiểm soát mực nước, đối với thời tiết Mesopotamia ảnh hưởng đến các sông Tigris và Euphrates, và có thể khó dự đoán.

Đập được biết đến sớm nhất là Đập Jawa ở Jordan, cách thủ đô Amman về phía đông bắc. Loại đập trọng lực này có độ cao ban đầu và từng đá rộng , được xây trên nền đất rộng . Công trình này có tuổi 3000 TCN.

Đập Sadd-el-Kafara của Ai Cập cổ đại ở Wadi Al-Garawi, cách Cairo về phía nam có chiều dài ở chân và rộng . Công trình này được xây dựng khoảng 2800 hoặc 2600 TCN. là một loại đập khống chế lũ, nhưng đã bị phá hủy bởi trận mưa lớn trong khi xây dựng hoặc ngay sau khi hoàn thành.

Eflatun Pinar là một loài đập Hittite và đền thờ mùa xuân gần Konya, Thổ Nhĩ Kỳ. Nó được cho là có mặt từ thời kỳ đế chế Hittite vào khoảng thế kỷ XV và XIII TCN.

Kallanai được xây dựng bằng đá không đẻo với chiều dài hơn , cao và rộng cắt qua dòng chính của sông Kaveri ở Tamil Nadu, miền nam Ấn Độ. Cấu trúc nền của đập có tuổi thế kỷ II và được xem là một trong những công trình dẫn nước hay điều tiết nước cổ nhất trên thế giới vẫn còn đang sử dụng. Mục đích của đập này là chuyển hướng nước của sông Kaveri sang vùng đồng bằng châu thổ màu mở để tưới tiêu thông qua hệ thống kênh đào.

Đô Giang Yển là hệ thống thủy lợi cổ nhất còn tồn tại ở Trung Quốc bao gồm một đập chuyển dòng nước. Nó được hoàn thành vào năm 251 TCN. Một đập lớn bằng đất được thực hiện bởi lệnh doãn của nước Sở, công trình dâng nước ngập thung lũng mà ngày nay là miền bắc của tỉnh An Huy, đã tạo ra một bể tưới tiêu rất lớn (với chu vi ), hồ chứa này vẫn còn tồn tại đến ngày nay.

Kỹ thuật của người La Mã

thumb|[[Đập Cornalvo ở Tây Ban Nha đã được sử dụng trong gần 2 thiên niên kỷ.]] Việc xây dựng đập La Mã đặc trưng bởi "khả năng của người La Mã về lên kế hoạch và tổ chức xây dựng công trình quy mô lớn". Các nhà quy hoạch La Mã đã đưa ra khái niệm lạ thường thời đó về các đập chứa nước lớn có để đủ cung cấp nước lâu dài cho các khu đô thị cũng như qua mùa khô. Việc sử dụng tiên phong của họ về vữa không thấm thủy lực và đặc biệt bê tông La Mã cho phép xây dựng những công trình lớn hơn rất nhiều so với trước đó, và Đập Harbaqa, cả hai đều ở Syria thuộc La Mã. Đập La Mã cao nhất là đập Subiaco ở gần Rome; độ cao kỷ lục của nó vẫn không có công trình nào vượt qua mãi cho đến khi nó bị phá hủy vào năm 1305.

Các kỹ sư La Mã đã sử dụng thường xuyên các thiết kế tiêu chuẩn cổ như đập kè và đập trọng lực. Bên cạnh đó, họ đã thể hiện một trình độ sáng tạo cao, họ đã đưa ra hầu hết những thiết kế đập cơ bản khác mà hiện nay vẫn chưa được biết rõ. Các kiểu thiết kế bao gồm đập vòng cung trọng lực, đập vòng cung, đập có trụ chống và đập vòng cung có nhiều trụ chống, tất cả các loại này đã được biết đến và được ứng dụng vào thế kỷ II. Lực lượng lao động La Mã cũng tiên phong trong việc xây dựng các cây cầu đập như Cầu Valerian ở Iran.

thumb|left|Phần còn sót lại của đập [[Band-e Kaisar, được người La Mã xây vào thế kỷ III.]] Ở Iran, các đập cầu như Band-e Kaisar được sử dụng để cung cấp thủy điện qua các bánh xe nước, một loại bánh thủy lực vận hành nhờ sức nước. Một trong những đập cầu đầu tiên được người La Mã xây dựng là ở Dezful, nó có thể dâng lên cao 50 cubit để cung cấp cho tất cả nhà cửa trong thị trấn. Những đập chuyển dòng cũng được biết đến. Các đập Milling đã được giới thiệu, các kỹ sư Hồi giáo gọi là Pul-i-Bulaiti. Loại đập mill đầu tiên được xây dựng ở Shustar trên sông Karun, Iran, và nhiều đập loại này sau đó được xây dựng ở những nơi khác nhau trong thế giới Hồi giáo. Vào thế kỷ X, Al-Muqaddasi đã mô tả nhiều đập ở Ba Tư. Ông ghi nhận rằng có một cái ở Ahwaz dài hơn , Một cái khác, đập Band-i-Amir, đã cung cấp nước tưới tiêu cho 300 ngôi làng.

Trung Cổ

Hà Lan, một quốc gia nằm ở vùng đất thấp, các đập của nó thường dùng để ngăn sông nhằm điều tiết nước và ngăn nước biển tràn vào vùng đất lầy lội. Các đập này thường đánh dấu sự khởi đầu của một thị trấn hay thành phố bởi vì nó tạo sự thuận lợi cho việc băng qua sông ở những nơi như vậy, và thường được đặt tên địa danh trong tiếng Hà Lan.

Ví dụ thủ đô Hà Lan, Amsterdam (tên cũ là Amstelredam) bắt đầu bằng một đập qua sông Amstel vào cuối thế kỷ XII, và Rotterdam bắt đầu bằng một đập qua sông Rotte, một chi lưu nhỏ của Nieuwe Maas. Quảng trường trung tâm Amsterdam, bao phủ một diện tích nguyên thủy của một đập có tuổi 800 năm, vẫn còn mang tên Dam Square hay the Dam.

Thời kỳ công nghiệp

thumb|upright|240x240px|Đập chắn [[kênh đào Rideau ở Bytown.]] Người La Mã là người đầu tiên dựng đập vòng cung, nơi mà phản lực từ mố làm ổn định cấu trúc với áp lực thủy tĩnh bên ngoài, nhưng chỉ có trong thế kỷ XIX các kỹ năng kỹ thuật và vật liệu xây dựng chỉ có thể xây dựng những đập vòng cung kiểu lớn đầu tiên.

3 đập vòng cung đầu tiên được xây dựng trong thời Đế chế Anh vào đầu thế kỷ XIX. Henry Russel thuộc kỹ sư hoàng gia đã giám sát việc xây dựng đập Mir Alam năm 1804, đập này cung cấp nước cho thành phố Hyderabad (nó vẫn được sử dụng cho đến ngày nay). Đập có độ cao 12m và bao gồm 21 cung.

Vào thập niên 1820 và 1830, Lieutenant-Colonel John By đã giám sát việc xây dựng kênh đào Rideau ở Canada gần nơi mà ngày nay là Ottawa và đã xây một loại các đập chịu lực cong như là một phần của hệ thống dẫn nước. Đặc biệt, đập Jones Falls được John Redpath xây đã hoàn thành vào năm 1832 là đập lớn nhất Bắc Mỹ và là một công trình kỹ thuật tuyệt vời lúc đó. Để giữ và kiểm soát nước trong quá trình xây đập, hai cống-là các kênh đào được xây dựng để dẫn nước. Cống thứ nhất gần chân đập và nằm về phía đông. Cống thứ 2 đặc đặt ở phía tây, cao khoảng 6 m trên chân đập. Để chuyển đổi từ cống thấp sang cống cao, cửa xả của Sand Lake được đóng lại.

Hunts Creek gần thành phố Parramatta, Úc được ngăn đập trong thập niên 1850, để phục vụ cho nhu cầu về nước do dân số ngày càng tăng của thành phố. Thân đập đập cánh cung masonry được Lieutenant Percy Simpson thiết kế, ông là người chịu ảnh hưởng của những tiến bộ về kỹ thuật công nghệ đập của hội Kỹ sư hoàng gia Ấn Độ. Đập tốn chi phí 17.000 bảng và được hoàn thành năm 1856 là đập có kỹ thuật đầu tiên được xây ở Úc, và là đập cánh cung thứ 2 trên thế giới được xây dựng theo các thông số toán học.

Đập loại này đầu tiên ở Pháp được xây dựng trước đó 2 năm. Nó cũng là đập cánh cung đầu tiên của thời kỳ công nghiệp ở Pháp, và nó được François Zola xây ở xã Aix-en-Provence để cải thiện cung cấp nước sau đại dịch tả năm 1832 đã tàn phá vùng này. Sau sự phê chuẩn của hoàng gia năm 1844, đập được xây dựng hơn một thập niên sau đó. Công việc xây dựng được tiến hành dựa trên những kết quả toán học cơ bản về phân tích ứng suất.

Đập 75-dặm gần Warwick, Úc có lẽ là đập cánh cung bê tông đầu tiên trên thế giới. Được thiết kế bởi Henry Charles Stanley năm 1880 với một đập tràn và một cửa xả đặc biệt, nó dâng nước cao 10 m.

Vào nửa cuối thế kỷ XIX, những tiến bộ đáng kể về lý thuyết khoa học của thiết kế đập xây khối được đưa ra. Điều này đã chuyển đổi thiết kế đập, từ việc dựa trên phương pháp thực nghiệm sang một cách chuyên nghiệp hơn là dựa trên khung lý thuyết khoa học được áp dụng một cách nghiêm ngặt. Sự cải tiến này được tập trung nghiên cứu trong các Khoa kỹ thuật của các trường đại học ở Pháp và Liên hiệp Anh. William John Macquorn Rankine ở đại học Glasgow là người tiên phong hiểu biết về lý thuyết các cấu trúc đập, được thể hiện trong bài báo năm 1857 của ông về On the Stability of Loose Earth (tính ổn định của đất bở rời). Lý thuyết Rankine cung cấp sự hiểu biết rõ về các nguyên lý trong việc thiết kế đập. Ở Pháp, J. Augustin Tortene de Sazilly đã giải thích các cơ chế phải đối mặt với các loại đập trọng lực khối xây và đập Zola là đập đầu tiên được xây dựng dựa trên những nguyên lý này.

Các con đập lớn

thumb|[[Đập Hoover của Ansel Adams, 1942.]] Thời đại của các con đập lớn được bắt đầu với việc xây dựng các đập Aswan hạ ở Ai Cập vào năm 1902, một đập trọng lực chống đỡ trên sông Nile. Sau cuộc xâm lược và chiếm đóng Ai Cập năm 1882, người Anh bắt đầu xây dựng đập Aswan vào năm 1898. Dự án được Sir William Willcocks thiết kế và hàng loạt kỹ sư lỗi lạc của thời kỳ đó tham gia, trong đó có Sir Benjamin Baker và Sir John Aird. Hai người này có công ty John Aird & Co. được chọn làm nhà thầu chính. Vốn và tài chính do công ty Ernest Cassel cung cấp. Đập được xây dựng từ năm 1899 tới năm 1902 với một quy mô chưa từng thấy, đến khi hoàn thành, đập này đã trở thành đập gạch lớn nhất thế giới.

Đập Hoover là đập trọng lực cánh cung bê tông khối, được xây dựng ở Black Canyon trên sông Colorado, trên ranh giới giữa hai tiểu bang Arizona và Nevada trong khoảng năm 1931 và 1936 trong suốt thời kỳ đại suy thoái. Năm 1928, Quốc hội Hoa Kỳ ủy quyền cho dự án xây đập nhằm kiểm soát lũ lụt, cung cấp nước tưới tiêu và phát thủy điện và công ty thắng thầu xây dựng đập là Six Companies, Inc.. Cấu trúc đập bê tông lớn này chưa từng được xây dựng trước đó, và một số kỹ thuật cũng chưa được chứng minh. Thời tiết khô nóng mùa hè và thiếu các phương tiện gần vị trí xây dựng cũng là những khó khăn. Tuy nhiên, Six Companies đã hoàn thành và chuyển giao đập cho chính phủ vào 01 tháng 3 năm 1936, trước thời hạn 2 năm.

Đến năm 1997, ước tính có 800.000 đập trên thế giới, 40.000 trong số đó có độ cao hơn .

Phân loại

Tùy theo tiêu chí phân loại mà người ta chia đập thành các loại khác nhau.

  • Theo chế độ thủy lực phân ra làm hai loại: đập dâng (không cho nước tràn qua) và đập tràn (cho nước tràn qua).
  • Theo vật liệu để xây dựng đập: đập đất (vật liệu làm bằng đất), đập đá đổ, đập bê tông...
  • Theo thiết kế trên mặt bằng: đập vòm (với đỉnh đập hình cánh cung),...

Một số thuật ngữ

  • Đỉnh đập
  • Vai đập
  • Ngưỡng tràn
  • Thân đập
  • Trục đập
  • Mặt cắt đập: được giải thích kĩ hơn trong phần dưới đây:

Mặt cắt đập

Mặt cắt đập là phần giao cắt giữa thân đập và mặt phẳng thẳng đứng vuông góc với trục đập. Các đập nhỏ, kết cấu đơn giản thường có mặt cắt hình thang. Với những công trình lớn, cần xét đến cả chế độ thủy động lực khi vận hành, mặt cắt của đập phải được thiết kế một cách xuôi thuận theo nghĩa nó cho được lượng lớn dòng chảy đi qua mà không tạo ra những xoáy cuộn có sức phá hoại. Dạng mặt cắt đập thường theo profile của dòng chảy tự do, từ đó dẫn đến một số chuẩn trong thiết kế (như mặt cắt thực dụng, mặt cắt Ofiserov).

Xây dựng đập

Các mục đích chung

Một số mục đích nêu trên có những xung đột và các nhà điều hành đập cần phải làm cho sự cân bằng năng động. Ví dụ phát điện và cấp nước cần phải giữ cho mực nước hồ cao trong khi công tác phòng chống lũ lụt sẽ phải giữ mực nước thấp. Nhiều đập nước ở những nơi có lượng mưa dao động trong một chu kỳ hàng năm cũng sẽ thấy sự dao động mực nước hồ hàng năm trong một nỗ lực để cân bằng những mục đích khác nhau. Việc quản lý đập trở thành một bài toán phức tạp giữa các bên liên quan.

Vị trí

thumb|[[Takato Dam|Đập Takato xả nước]] Vị trí tốt nhất để xây đập là phần hẹp của thung lũng sông sâu; hai vách thung lũng có thể dùng làm các tường tự nhiên. Chức năng cơ bản của cấu trúc đập là lấp đầy nước trong khoảng cao thiết kế của đập trong kênh dẫn. Vị trí được chọn phải đảm bảo khoảng không tối thiểu để có khả năng chứa đủ nước cần thiết.

Ý nghĩa của các yếu tố kỹ thuật và địa chất cần quan tâm trong khảo sát xây dựng đập gồm:

  • Độ thấm của đất đá xung quanh
  • Các đứt gãy kiến tạo
  • Trượt lở và ổn định mái dốc
  • Mực nước ngầm
  • Dòng chảy đỉnh lũ
  • Lắng đọng vật liệu
  • Tác động môi trường đến đánh bắt thủy sản trên sông, rừng và động vật hoang dã
  • Những tác động đến nơi sinh sống của con người
  • Bồi thường đất ngập lụt cũng như tái định cư
  • Loại bỏ các vật liệu độc và vật liệu xây dựng trong khu vực hồ chứa

Đánh giá tác động

Tác động được đánh giá theo nhiều cách: những lợi ích đối với xã hội từ việc xây đập (nông nghiệp, nước, phòng chống thiệt hại và điện năng), tác hại đối với tự nhiên và sinh vật hoang dã, tác động về địa chất của khu vực – hoặc thay đổi dòng chảy và các mức độ tăng hoặc giảm sự ổn định, và sự gián đoạn đối với cuộc sống con người.

Tác động môi trường

thumb|Gỗ và rác tích tụ do đập

Các hồ chứa sau đập ảnh hưởng đến nhiều mặt sinh thái của sông. Địa hình và động lực sông phụ thuộc vào bề rộng của dòng chảy trong khi đoạn sông bên dưới đập thường trải qua thời gian dài để đạt đến trạng thái cân bằng dòng chảy mới. Nước xả từ các hồ chứa bao gồm cả việc đi qua tourbin thường chứa rất ít chất lơ lửng, và điều này đến lượt nó có thể gây ra sự xáo trộn vật liệu trầm tích đáy và bờ sông gây xâm thực.

Các đập cổ hơn thường thiếu các đường dẫn cá, đường dẫn này giúp cho cá có thể di chuyển về thượng lưu để sinh đẻ theo cách tự nhiên của chúng, gây gián đoạn vòng sinh sản và di chuyển của cá. Thận chí nếu có đường dẫn cá thì chúng cũng có tác dụng ngăn cản và không phải lúc nào cá cũng có thể đến được bãi đẻ ở thượng lưu. Ở một vài khu vực, cá con được vận chuyển về hạ lưu bằng sà lan nhiều lần trong năm.

Một đập lớn có thể làm mất toàn bộ hệ sinh thái bao gồm các loài nguy cấp và các loài chưa được phát hiện trong khu vực, và thay thế môi trường nguyên thủy bằng một hồ chứa nước nội địa.

Các hồ chứa nước lớn sau đập đã cho thấy những ảnh hưởng của chúng đến hoạt động địa chấn, do sự thay đổi tải trọng cột nước lên nền đất tự nhiên.

Các đập cũng có vai trò làm gia tăng sự ấm lên toàn cầu. Mực nước thay đổi trong đập và hồ chứa là một trong những nguồn chính sinh ra khí nhà kính như metan. Trong khi các đập và hồ chứa che phủ chỉ một phần nhỏ bề mặt Trái Đất, chúng nuôi dưỡng hoạt động sinh học mà có thể sinh ra một lượng lớn khí nhà kính.

Tác động xã hội

nhỏ|phải|Vùng Barragem Marechal Carmona ở Bồ Đào Nha Tác động về mặt xã hội của đập cũng đáng kể. Nick Cullather lập luận trong Hungry World: America's Cold War Battle Against Poverty in Asia rằng xây dựng đập cần chính phủ di dời dân cư, và nó thường bị các nhà quy hoạch lạm dụng. Ông dẫn ra rằng Morarji Desai, Bộ Nội vụ Ấn Độ, trong một phát ngôn năm 1960 với các dân làng về đập Pong, ông đã đe dọa "xả nước" và nhấn chìm dân làng nếu họ không hợp tác.

Ví dụ, Đập Tam Hiệp trên sông Dương Tử ở Trung Quốc lớp hơn gấp 5 lần kích thước đập Hoover (Hoa Kỳ), và tạo ra một hồ chứa dài 600 km được dùng để phát điện. Công tác xây dựng làm mất nhà cửa của hơn 1 triệu dân và cần một lượng lớn diện tích cho tái định cư, mất đi các vị trí khảo cổ và văn hóa có giá trị, cũng những thay đổi đáng kể về sinh thái. Ước tính đến hiện nay có 40–80 triệu dân số trên toàn cầu đã di dời khỏi nhà cửa của họ do ảnh hưởng của việc xây dựng đập.

Kinh tế

Xây dựng nhà máy thủy điện cần thời gian nghiên cứu tiền khả thi lâu dài về địa điểm, nghiên cứu thủy văn, và đánh giá tác động môi trường, và là các dự án quy mô lớn so với các nhà máy phát điện dùng nhiên liệu hóa thạch truyền thống. Nhiều vị trí có thể mang lại hiệu quả kinh tế với mục đích phát điện thì hạn chế; các vị trí mới có khuynh hướng xa các trung tâm đô thị và thường cần phải đầu tư mạng lưới truyền tải điện.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
[[Đập Krasnoyarsk, Nga]] **Đập nước** là loại công trình nhằm ngăn dòng nước mặt hoặc ngăn dòng giữ nước từ các con sông, suối nhằm khai thác sử dụng tài nguyên nước. Các nhà máy
Đập Tam Hiệp, phía thượng lưu có mức nước cao, [[26 tháng 7 năm 2004]] **Đập Tam Hiệp** () là đập thủy điện nằm chặn ngang sông Trường Giang (sông dài thứ ba trên thế
**Đập Tabqa** (, _Sadd al-Ṭabqa_; ; ), còn được gọi là **đập al-Thawra** (, _Sadd al-'thawra_, nghĩa đen "Đập Cách mạng") hay **đập Euphrates** (, _Sadd al-Furāt_; ; ) là một đập nước trên sông
**Đập Thủy Phong** (; tiếng Triều Tiên: 수풍댐, Sup'ung Taem, đều có phiên âm Hán Việt là **Thủy Phong**), là một đập thủy điện trên Sông Áp Lục nằm giữa Huyện tự trị dân tộc
phải|nhỏ| Một cơn lũ tấn công một đập ngăn ở [[Rockhampton, Úc ]] **Đập ngăn** là một loại đập thấp, có nhiều dòng chảy dẫn nước, bao gồm một số cánh cửa lớn có thể
nhỏ|Đập sông Thamesnhỏ|Cận cảnh hàng rào, cổng, được đóng lại khi một lũ cảnh báo được phát hành**Đập sông Thames** (_tiếng Anh_: **_Thames Barrier_**) là một cái đập di động dùng để ngăn nước lũ
thumb| **Đập hải ly** là những con đập do hải ly xây dựng để cung cấp ao cũng như việc bảo vệ chống lại những kẻ săn mồi như chó sói và gấu, đồng thời
**Đập Mica**, một đập thủy điện chắn qua sông Columbia 135 km về phía bắc Revelstoke, British Columbia, Canada, được xây dựng là một trong ba dự án của Canada theo các điều khoản của Hiệp
**Đập Hoover**, đã từng có tên gọi là đập Boulder, là một đập vòm bê tông trọng lực trong Black Canyon của sông Colorado, trên biên giới giữa các tiểu bang Arizona và Nevada của
Vào ngày 6 tháng 6 năm 2023, đập nước Kakhovka ở Ukraina bị vỡ, gây ra lũ lụt trên diện rộng. Nằm trên sông Dnepr ở tỉnh Kherson, con đập nằm dưới sự kiểm soát
**Đập Bhumibol** (_trước đây gọi là_ **Đập Yanhi**) là một đập vòm bê tông trên sông Ping, một nhánh của sông Chao Phraya, nằm ở huyện Sam Ngao, tỉnh Tak, Thái Lan. Vị trí đập
Đập Grand Ethiopian Renaissance (**GERD** hoặc **TaIHiGe**; **'), trước đây gọi là **Đập Millennium** và đôi khi được gọi là **đập Hidase''', là một đập trọng lực trên sông Nin Xanh ở Ethiopia đã được
**Sự cố vỡ đập thủy điện Xe Pian-Xe Namnoy** xảy ra lúc 20h00 (giờ địa phương) ngày 23 tháng 7 năm 2018 ở tỉnh Attapeu, Lào. Đập vỡ dẫn đến 0,5 tỷ m³ nước tràn
**Đập Myitsone** (, là một dự án đập thủy điện lớn đang được xây dựng trên sông Irawaddy Miến Điện (Myanmar). Nếu hoàn thành theo kế hoạch vào năm 2017, nó sẽ là đập thủy
**Đập Nha Trinh** là một đập thủy lợi nằm trên sông Cái Phan Rang tại tỉnh Ninh Thuận, Việt Nam. Qua hơn 800 năm tồn tại, ngày nay, đập nước vẫn giữ vai trò điều
**Đập Khê Lạc Độ** (tiếng Trung giản thể: 溪洛渡大坝) là một đập vòm trên sông Kim Sa, một nhánh của sông Dương Tử ở Trung Quốc. Nằm gần thị trấn Khê Lạc Độ thuộc huyện
**Đập Glen Canyon** là một đập nước dạng vòm trọng lực trên sông Colorado, phía bắc Arizona, Mỹ, gần thị trấn Page. Đập cao 220 m được xây dựng bởi Cục Khai hoang Hoa kỳ
Aswan là thành phố nằm gần thác nước lớn đầu tiên trên sông Nile ở Ai Cập. Người ta xây dựng hai đập dạng chữ V trên đoạn này gồm đập mới có tên **đập
**Đập Grand Coulee** là một đập lực trên sông Columbia ở tiểu bang Washington của Hoa Kỳ được xây dựng để sản xuất năng lượng thủy điện và cung cấp thủy lợi. Nó được xây
**Đập Xayabury** là một con đập thủy điện đang được xây dựng trên sông Mê Kông, vào khoảng về phía đông của huyện Xayabury, tỉnh Xayabury ở miền bắc Lào. Các nhà hoạt động phản
**Đập Gleno** là một đập vòm đa trên sông Gleno ở Valle di Scalve, tỉnh Bergamo phía bắc nước Ý. Đập được xây dựng giữa năm 1916 và 1923 với mục đích sản xuất thủy
**Đập Cẩm Bình-I** (tiếng Trung giản thể: 锦屏 一级; tiếng Trung Quốc truyền thống: 一級) còn được gọi là **Thủy điện Cẩm Bình-I**, là một đập vòm cao trên sông sông Nhã Lung (Yalong Jiang)
Đây là danh sách các **đập cao nhất thế giới**. Con đập cao nhất thế giới là đập Jinping-I, một đập vòm ở Trung Quốc với chiều cao . Đập kè cao nhất và đập
trái|nhỏ|Các cửa xả tràn đập Akosombo **Đập Akosombo**, hay còn được gọi là Dự án Thủy điện Akosombo, là một đập thủy điện trên sông Volta đông nam Ghana. Việc xây dựng đập đã làm
**Đập Edersee** là một đập thủy điện được xây dựng băng qua sông Eder ở miền bắc bang Hessen, Đức. Được xây dựng từ năm 1908 đến năm 1914, đập nằm gần thị trấn nhỏ
**Khu Công trình Ngăn ngừa Lũ lụt Sankt-Peterburg** (tiếng Nga: _Комплекс защитных сооружений Санкт-Петербурга от наводнений_, _Kompleks zashchitnykh sooruzheniy Sankt-Peterburga ot navodneniy_), tên không chính thức là **Đập Sankt-Peterburg**, là một tổ hợp đập nước
nhỏ|phải|Đập Inga I với kênh cấp nước cho Inga II ở cận cảnh. nhỏ|phải|Các dự án đập Inga, năm 2006. nhỏ|phải|Các quy hoạch chính thức Inga III và Grand Inga, thời điểm 2006. **Các đập
**Đập Tasang** (), còn được gọi là **đập Mong Ton**, là một đập được lên kế hoạch trên sông Salween ở bang Shan, Myanmar. Vị trí của đập Tasang sẽ là về phía đông bắc
thumb|Đập Sardar Sarovar **Đập Sardar Sarovar** là một đập trọng lực trên sông Narmada gần Navagam, Gujarat ở Ấn Độ. Bốn tiểu bang Ấn Độ, Gujarat, Madhya Pradesh, Maharastra và Rajasthan, nhận nước và điện
Hình:Roseires Reservoir.jpg **Đập Roseires** (tiếng Ả Rập: خزان الروصيرص) là một con đập trên dòng sông Nin Xanh (một nhánh thượng nguồn của sông Nin) tại Ad-Damazin, thượng nguồn của các thị trấn Er Roseires,
nhỏ|Video: Hoạt động của máy Claas Lexion 570. [[Claas 570 tích hợp buồng lái kín có máy điều hòa, bộ phận đập xoay trục và thiết bị lái thủy lực định hướng bằng la-de. Máy
**Đập hồ chứa nước Bản Kiều** (板橋水庫) là một đập trên sông Nhữ ở địa cấp thị Trú Mã Điếm của tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Đập này bị vỡ năm 1975, khiến 240.000 người
thumb|Đập nước München-Oberföhring, mặt trên thumb|Chỗ dẫn nước vào kinh đào Mittlere-Isar, mặt dưới thumb|Nhà thủy điện mới, dưới mặt đất **Đập nước Oberföhring** là một đập nước tại sông Isar ở miền Bắc München
**Sự kiện vỡ đập Patel** là sự kiện đập Patel Milmet, gần thị trấn Solai, huyện Nakuru, có vị trí nằm trong Thung lũng Tách giãn Lớn, thuộc phần lãnh thổ của Kenya bị vỡ
**Đập Itaipu** (, ; , ) là một đập thủy điện trên sông Paraná nằm ở biên giới giữa Brazil và Paraguay. Cái tên "Itaipu" được lấy từ một hòn đảo gần vị trí xây
**Đập Bạch Hạc Than** (tiếng Trung giản thể 白鹤滩大坝) là một đập thủy điện lớn được xây dựng trên sông Kim Sa, một nhánh của sông Trường Giang ở tỉnh Tứ Xuyên và Vân Nam,
**Đập Long Than** (tiếng Trung giản thể: 龙滩大坝) là một đập trọng lực bê tông đầm lăn (RCC) trên sông Hồng Thủy ở Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, Trung Quốc, một nhánh
**Đập Krasnoyarsk** là một đập thủy điện được xây dựng băng qua sông Enisei ở miền bắc huyện Divnogorsk, vùng Krasnoyarsk, Nga. Được xây dựng từ năm 1956 đến năm 1972 và cung cấp 6.000
**Đập Irapé** là đập cao nhất ở Brasil, là một con đập kè trên sông Jequitinhonha ở bang Minas Gerais. Nó nằm trên ranh giới của Berilo và Grão Mogol, cách Virgem da Lapa về
**Đập Sengbachtal** là một đập chứa nước uống ở Solingen. Nó nằm trong một thung lũng hẻo lánh của sông Wupper cách Lâu đài Burg không xa, giữa các làng Solingen, Höhrath và Glüder. Hồ
**Đập Laxiwa** (tiếng Trung giản thể: 拉西瓦大坝) là một đập vòm trên sông Hoàng Hà ở tỉnh Thanh Hải, tây bắc Trung Quốc. Đập năm cách đập Longyangxia 32 km về phía hạ lưu và thượng
nhỏ|624x624px| Infographic về chi phí của đập Belo Monte **Đập Belo Monte** (_trước đây gọi là_ **Kararaô**) là một phức hợp đập thủy điện nằm ở phía bắc của sông Xingu, bang Pará, Brazil. Công
**Đập Tucuruí** () là một đập trọng lực bê tông trên sông Tocantins, quận Tucuruí, bang Pará, Brazil. Mục đích chính của đập là sản xuất thủy điện và điều tiết nước. Đây là dự
**Sự cố vỡ đập Machchu** hay**hảm họa Morbi** là một thảm họa lũ lụt liên quan đến đập xảy ra vào ngày 11 tháng 8 năm 1979, ở Ấn Độ. Đập Machchu-2, nằm trên sông
**Đập Mạn Loan** (; ; phiên âm Hán-Việt: _Mạn Loan đại máng_) là đập thủy điện lớn đầu tiên được hoàn thành trên sông Mê Kông. Đập này nằm ở huyện Vân, địa cấp thị Lâm
**Đập Xiangjiaba** (tiếng Trung giản thể: 向家坝) là một đập trọng lực lớn trên sông Kim Sa, một nhánh của sông Dương Tử ở tỉnh Vân Nam và tỉnh Tứ Xuyên, tây nam Trung Quốc.
**Đập Đại Triều Sơn** () là một đập thủy điện trên sông Lan Thương ở vị trí nơi bờ đông thuộc huyện Cảnh Đông của địa cấp thị Phổ Nhĩ, bờ tây thuộc huyện Vân
**Đập sông Gordon** hay còn gọi là **đập Gordon** là một đập vòng cung kép trên sông Gordon ở Tasmania. Nó có độ cao 140 m, và là đập cao nhất ở Tasmania và cao
**Đập Cẩm Bình-II** (tiếng Trung giản thể 锦屏二级水电站), còn được gọi là **thủy điện Cẩm Bình-II**, là một đập trọng lực trên sông Nhã Lung ở Tứ Xuyên, Trung Quốc. Đập được bắt đầu được
**Đập Zuibaiji** là một con đập trọng lực nằm ở tỉnh Fukuoka, Nhật Bản. Con đập được sử dụng để kiểm soát lũ lụt và cấp nước. Diện tích lưu vực của đập là 7.2 km2.