✨Đạo luật Nhập cư và Quốc tịch 1965

Đạo luật Nhập cư và Quốc tịch 1965

Luật Nhập cư và Quốc tịch năm 1965 là một đạo luật liên bang được Quốc hội Hoa Kỳ khóa 89 thông qua và được Tổng thống Lyndon B. Johnson ký ban hành. Đạo luật bãi bỏ hạn ngạch nhập cư dựa trên nguồn gốc dân tộc trong chính sách nhập cư của Hoa Kỳ và chính thức cho phép tăng nhập cư từ Nam Âu, Đông Âu, châu Á và những dân tộc khác ngoài Tây Âu, Bắc Âu.

Hạn ngạch nguồn gốc dân tộc được quy định từ thập niên 20 nhằm duy trì tính đồng nhất của dân số Hoa Kỳ thông qua thúc đẩy nhập cư từ Tây và Bắc Âu. Trước khi đạo luật được ban hành, dân số Hoa Kỳ gồm 85% người Mỹ da trắng, 11% người Mỹ gốc Phi, ít hơn 4% người Mỹ gốc Latinh. Từ thập niên 60, khi phong trào dân quyền Hoa Kỳ vào hồi cao trào, hạn ngạch nguồn gốc dân tộc bị lên án là phân biệt chủng tộc. Với sự ủng hộ của chính quyền Johnson, Thượng nghị sĩ Philip Hart và Hạ nghị sĩ Emanuel Celler trình một dự luật nhằm bãi bỏ hạn ngạch nhập cư. Dự luật được đông đảo nghị sĩ Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa phía bắc ủng hộ nhưng bị những nghị sĩ bảo thủ phía nam phản đối mạnh mẽ. Ngày 3 tháng 10 năm 1965, Tổng thống Johnson ký ban hành Luật Nhập cư và Quốc tịch năm 1965. Đạo luật mở cửa nhập cư từ những khu vực ngoài Tây Âu và Bắc Âu và thay đổi đáng kể nhân khẩu của Hoa Kỳ.

Luật Nhập cư và Quốc tịch năm 1965 quy định bảy diện thị thực ưu tiên dành cho người thân, con cái của công dân Hoa Kỳ và thường trú nhân, chuyên gia, cá nhân có kỹ năng chuyên môn và người tị nạn. Đạo luật lần đầu tiên giới hạn số lượng nhập cư từ Tây Bán cầu dưới 120.000 người mỗi năm. Từ khi đạo luật được ban hành, số lượng nhập cư vào Hoa Kỳ từ châu Á, châu Phi, Đông Âu và Nam Âu bắt đầu tăng mạnh.

Bối cảnh

Luật Nhập cư và Quốc tịch năm 1965 đánh dấu một sự đột phá triệt để trong chính sách nhập cư của Hoa Kỳ. Từ khi Quốc hội giới hạn nhập tịch dành cho "người da trắng" vào năm 1790 thì Hoa Kỳ đã hạn chế nhập cư từ châu Á, châu Phi và ưu tiên nhập cư từ Bắc Âu, Tây Âu so với Nam Âu, Đông Âu. Trong thời kỳ này, hầu hết những người nhập cư vào Hoa Kỳ là người Bắc Âu theo đạo Tin Lành và người Tây Phi bị bán làm nô lệ. Từ giữa thế kỷ 19, xu hướng nhập cư vào Hoa Kỳ bắt đầu thay đổi. Về phía tây, một lượng lớn người châu Á, nhất là người Trung Quốc, nhập cư làm lao động giá rẻ, trong khi người nhập cư từ Đông Âu và Nam Âu định cư về phía đông.

Một khi thành phần chủng tộc của người nhập cư bắt đầu thay đổi, Hoa Kỳ ban hành các chính sách nhằm giảm nhập cư từ những chủng tộc, dân tộc nhất định. Luật bài Hoa được ban hành vào năm 1882, quy định cấm nhập cư đối với người Trung Quốc. Năm 1917, Quốc hội thông qua Luật Nhập cư, quy định người nhập cư phải biết hiểu biết ngôn ngữ Trên toàn thế giới, Hoa Kỳ được công nhận là đi tiên phong trong việc luật hóa phân biệt chủng tộc. Chế độ phân biệt chủng tộc của Đức Quốc Xã lấy cảm hứng từ chế độ nhập cư, nhập tịch và kết hôn của Hoa Kỳ. Trong Mein Kampf, Adolf Hitler ca ngợi chế độ nhập cư của Hoa Kỳ:Từ thập niên 60, Hoa Kỳ đối mặt với sức ép thay đổi hạn ngạch nguồn gốc dân tộc trong chính sách nhập cư. Về đối nội, chính sách bị lên án là phân biệt đối xử về nơi sinh của một cá nhân. Về đối ngoại, những nước cựu đồng minh quân sự và những nước độc lập mới vận động thay đổi chính sách nhập cư, nhập tịch phân biệt đối xử thông qua những tổ chức quốc tế như Liên Hợp Quốc. Trước đó, đã có nỗ lực thẩm tra, đánh giá hạn ngạch nguồn gốc dân tộc. Năm 1952, Tổng thống Truman chỉ đạo Ủy ban Nhập cư và Nhập tịch rà soát chính sách nhập cư của Hoa Kỳ. Báo cáo của ủy ban trở thành cơ sở của Luật Nhập cư và Quốc tịch. Vào thời điểm phong trào dân quyền Hoa Kỳ đến cao trào, hạn ngạch nguồn gốc dân tộc bị công kích là đáng xấu hổ. Tuy nhiên, dư luận không đồng tình với chủ trương của chính quyền: chỉ 51% ủng hộ bãi bỏ hạn ngạch nguồn gốc dân tộc trong một cuộc thăm dò ý kiến vào năm 1965. Đạo luật được thông qua vào ngày 3 tháng 10 năm 1965. Tổng thống Johnson ký ban hành đạo luật dưới chân Tượng Nữ thần Tự do, chấm dứt chính sách ưu tiên người nhập cư da trắng có từ thế kỷ 18.

Lịch sử lập pháp

liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:President_Lyndon_B._Johnson_Signing_of_the_Immigration_Act_of_1965_(02)_-_restoration1.jpg|nhỏ|Tổng thống [[Lyndon B. Johnson ký ban hành đạo luật, có Phó Tổng thống Hubert Humphrey, Thượng nghị sĩ Ted Kennedy, Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy và những người khác chứng kiến.]] Luật Nhập cư và Quốc tịch năm 1965 trải qua nhiều giai đoạn tại Quốc hội trước khi được thông qua. Từ ngày 14 tháng 3 năm 1960 đến ngày 19 tháng 8 năm 1965, dự luật được trình nhiều lần tại Thượng viện. Vào thời chính quyền Kennedy, dự luật không được Quốc hội thông qua vì Thượng nghị sĩ James Eastland (Dân chủ-MS), Hạ nghị sĩ Michael Feighan (Dân chủ-OH) và Hạ nghị sĩ Francis Walter (Dân chủ-PA) kiểm soát các tiểu ban nhập cư của Quốc hội và đều phản đối cải cách nhập cư.

Trình dự luật

Với sự ủng hộ của chính quyền Johnson, Hạ nghị sĩ Emanuel Celler (Dân chủ-NY), chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp, trình dự luật Nhập cư và Quốc tịch H.R. 2580 Nhiều tổ chức văn hóa và dân quyền ủng hộ dự luật, cho rằng đạo luật sẽ loại bỏ sự phân biệt chủng tộc của hạn ngạch nhập cư và cải thiện hình ảnh của Hoa Kỳ đối với những nước có hạn ngạch nhập cư thấp. Hạ nghị sĩ Emanuel Celler trình dự luật trước Hạ viện. Dự luật được Hạ viện thông qua với 320 phiếu thuận, 70 phiếu chống và được Thượng viện thông qua với 76 phiếu thuận, 18 phiếu chống.

Thượng nghị sĩ Hiram Fong (Quảng Hữu Lương) (Cộng hòa-HI) giải đáp các câu hỏi về khả năng người châu Á nhập cư sẽ thay đổi văn hóa Hoa Kỳ:Hạ nghị sĩ Michael A. Feighan (Dân chủ - OH-20) và một vài hạ nghị sĩ Đảng Dân chủ khác đề nghị ưu tiên "đoàn tụ gia đình" so với "lao động" trong việc cấp thị thực vì sẽ duy trì được thành phần chủng tộc của Hoa Kỳ. Thay đổi này dẫn đến hiện tượng nhập cư dây chuyền trong xu hướng nhập cư vào Hoa Kỳ. Quy định cấm phân biệt đối xử về chủng tộc và nguồn gốc dân tộc của đạo luật làm thay đổi đáng kể thành phần nhân khẩu của Hoa Kỳ.

Ký ban hành

Ngày 3 tháng 10 năm 1965, Tổng thống Lyndon B. Johnson ký ban hành Luật Nhập cư và Quốc tịch năm 1965 tại Đảo Liberty, Thành phố New York

Quy định

Luật Nhập cư và Quốc tịch năm 1965 sửa đổi, bổ sung Luật Nhập cư và Quốc tịch năm 1952 (được gọi là Luật McCarran–Walter). Đạo luật giữ nguyên một số quy định của Luật Nhập cư năm 1924 nhưng thành lập và mở rộng các diện nhập cư. Một mặt đạo luật duy trì hạn ngạch nhập cư đối với mỗi quốc gia, là chính sách nhập cư của Hoa Kỳ từ thập niên 20, mặt khác đạo luật quy định các diện nhập cư ưu tiên.

Một trong những điểm mới của đạo luật là bãi bỏ hạn ngạch nguồn gốc dân tộc trong chính sách nhập cư và cấm phân biệt đối xử về nguồn gốc dân tộc và chủng tộc trong việc cấp thị thực.

Luật Nhập cư và Quốc tịch năm 1965 quy định bảy diện thị thực ưu tiên dành cho người thân của công dân Hoa Kỳ và thường trú nhân, chuyên gia và cá nhân có kỹ năng chuyên môn.

Người thân trực hệ và "người nhập cư đặc biệt" không phải chịu giới hạn nhập cư. "Người thân trực hệ" được định nghĩa là con cái, vợ chồng của công dân Hoa Kỳ và cha mẹ của công dân Hoa Kỳ đủ 21 tuổi trở lên.

Tác động trực tiếp đối với số lượng nhập cư theo hạn ngạch

liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:1964-1965-1966_Quota_Immigrants_Admitted_to_the_USA_by_Country_(1966_INS_Report_Table_7).jpg|nhỏ|Hạn ngạch nhập cư vào Hoa Kỳ từ các nước Đông Bán cầu từ năm tài chính 1964 đến ngày 30 tháng 6 năm 1966 liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:1968-1969-1970_Quota_Immigrants_Admitted_to_the_USA_by_Country_(1970_INS_Report_Table_7).jpg|nhỏ|Hạn ngạch nhập cư vào Hoa Kỳ từ các nước Đông Bán cầu từ năm tài chính 1968 đến ngày 30 tháng 6 năm 1970 Luật Nhập cư và Quốc tịch năm 1965 bãi bỏ quy định hạn ngạch nguồn gốc dân tộc của Luật Nhập cư và Quốc tịch năm 1952 trong hai giai đoạn:

  • Từ ngày 1 tháng 12 năm 1965, hạn ngạch nguồn gốc dân tộc tiếp tục được áp dụng cho đến ngày 30 tháng 6 năm 1968 nhưng hạn ngạch dôi dư được bổ sung cho những nước đã đạt hạn ngạch theo nguyên tắc thứ tự. Tuy đạo luật vẫn ưu tiên nhập cư từ châu Âu nhưng nhập cư từ những nước chịu hạn ngạch cao đã giảm đáng kể xuống dưới hạn ngạch. Năm 1965, 296.697 người nhập cư vào Hoa Kỳ 158.561 người.
  • Từ ngày 1 tháng 7 năm 1968, chế độ hạn ngạch nguồn gốc dân tộc bị bãi bỏ, giới hạn nhập cư theo bán cầu có hiệu lực. Nhập cư từ Đông Bán cầu bị giới hạn ở 170.000 người theo nguyên tắc thứ tự, nhập cư từ mỗi nước không được vượt 20.000 người. Lần đầu tiên nhập cư từ Tây Bán cầu bị giới hạn ở 120.000 người mỗi năm.

Tác động lâu dài

liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Chart_of_foreign_born_in_the_US_labor_force_1900_to_2007.png|phải|nhỏ|Số lượng người lao động Hoa Kỳ sinh ra ở nước ngoài 1900-2015 Những người ủng hộ Luật Nhập cư và Quốc tịch năm 1965 lập luận rằng đạo luật sẽ không thay đổi văn hóa Hoa Kỳ. Tổng thống Johnson nói rằng dự luật "không phải là một dự luật cách mạng. Dự luật không ảnh hưởng đến cuộc sống của hàng triệu người dân." Đạo luật lần đầu tiên giới hạn số lượng người nhập cư từ các nước châu Mỹ, bao gồm México. Trung tâm Nghiên cứu Pew ước tính nhân khẩu Hoa Kỳ nếu không có những làn sóng nhập cư từ khi đạo luật được ban hành như sau: 75% người Mỹ da trắng, 14% người Mỹ gốc Phi, 8% người Mỹ gốc Latinh và Tây Ban Nha, ít hơn 1% người Mỹ gốc Á.

Trong 20 năm sau khi đạo luật được ban hành, 25.000 người lao động Philippines, bao gồm hàng ngàn y tá, điều dưỡng viên, nhập cư vào Hoa Kỳ theo diện thị thực lao động. Tỷ lệ dân số Hoa Kỳ sinh ra ở nước ngoài tăng từ 5% vào năm 1965 lên 14% vào năm 2016.

Việc bãi bỏ hạn ngạch nguồn gốc dân tộc, giới hạn số lượng người nhập cư từ Tây Bán cầu và nhu cầu người lao động nhập cư cao của các công ty Hoa Kỳ làm tăng số lượng người nhập cư bất hợp pháp tại Hoa Kỳ sau năm 1965, đặc biệt là ở khu vực tây nam. Những chính sách trong Luật Cải cách, kiểm soát nhập cư năm 1986 nhằm siết chặt nhập cư qua biên giới México–Hoa Kỳ khiến nhiều người lao động nhập cư bất hợp pháp ở lại Hoa Kỳ.

Quy định bãi bỏ hạn ngạch nguồn gốc dân tộc đã hạn chế những nỗ lực siết chặt nhập cư trong những năm gần đây. Tháng 1 năm 2017, Tổng thống Donald Trump ban hành Sắc lệnh 13769, tạm dừng nhập cư từ bảy nước Hồi giáo. Tuy nhiên, sắc lệnh bị tòa án liên bang hủy bỏ vì vi phạm quy định cấm phân biệt đối xử về chủng tộc và tôn giáo của Luật Nhập cư và Quốc tịch năm 1965. Tháng 6 năm 2017, Tòa án tối cao Hoa Kỳ hủy quyết định của cả hai tòa án phúc thẩm và cho phép lệnh cấm có hiệu lực nhưng miễn áp dụng đối với một người có "mối quan hệ chân thật" với một người hoặc tổ chức tại Hoa Kỳ. Tháng 12 năm 2017, Tòa án tối cao cho phép Sắc lệnh 13780 thay thế Sắc lệnh 13769 có hiệu lực. Tháng 6 năm 2018, Tòa án tối cao chứng thực lệnh cấm nhập cư, phán quyết rằng những phát ngôn kích động bài Hồi giáo của tổng thống không phải là cơ sở hủy bỏ quyền hạn về biên phòng của tổng thống, được Quốc hội ủy quyền trong hàng chục năm lập pháp về nhập cư.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Luật Nhập cư và Quốc tịch năm 1965** là một đạo luật liên bang được Quốc hội Hoa Kỳ khóa 89 thông qua và được Tổng thống Lyndon B. Johnson ký ban hành. Đạo luật
**Vụ xét xử các lãnh đạo Đảng Cộng sản theo Đạo luật Smith** ở thành phố New York từ năm 1949 đến năm 1958 là kết quả các cuộc truy tố của chính quyền liên
**Đạo luật Magnuson** hay **Đạo luật hủy bỏ sự ngăn chặn người Trung Hoa năm 1943** là một đạo luật do Dân biểu (sau này là Thượng nghị sĩ) Warren G. Magnuson của tiểu bang
**Lyndon Baines Johnson** hay còn gọi là **LBJ** (phát âm tiếng Anh: ; 27 tháng 8 năm 1908 – 22 tháng 1 năm 1973) là một chính trị gia người Mỹ. Ông là Tổng thống Hoa
**Tôn giáo tại Hoa Kỳ** đặc trưng bởi sự đa dạng các niềm tin và thực hành tôn giáo. Theo các cuộc thăm dò ý kiến gần đây, 76% tổng số dân Hoa Kỳ nhận
**Người Mỹ gốc Ai Cập** là người Mỹ có tổ tiên một phần hoặc toàn bộ là người Ai Cập. Điều tra dân số Hoa Kỳ năm 2016 ước tính số người có tổ tiên
**Lịch sử người Mỹ gốc Á** là lịch sử của các nhóm dân tộc và chủng tộc ở Hoa Kỳ là người gốc châu Á. Spickard (2007) chỉ ra rằng "Người Mỹ gốc Á là
thumb|[[Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump (trái) và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (phải) gặp nhau tại Hamburg, Đức tháng 7 năm 2017.]] thumb|Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Trung Quốcthumb|Đại sứ quán
**Đế quốc Anh** () bao gồm các vùng tự trị, thuộc địa được bảo hộ, ủy thác và những lãnh thổ khác do Khối liên hiệp Anh và các quốc gia tiền thân của nó
**Quốc hội Hoa Kỳ** (tiếng Anh: _United States Congress_) là cơ quan lập pháp của Chính quyền liên bang Hoa Kỳ. Quốc hội là lưỡng viện, gồm có Hạ viện Hoa Kỳ và Thượng viện
**Quốc hội Singapore** là cơ quan lập pháp một viện của Singapore, thực hiện quyền lập pháp cùng với tổng thống Singapore. Được tổ chức theo hệ thống Westminster, Quốc hội gồm những nghị sĩ
**Đại Hàn Dân Quốc**, gọi tắt là **Hàn Quốc**, là một quốc gia ở Đông Á; cấu thành nửa phía nam bán đảo Triều Tiên và ngăn cách với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
**Đại học Quốc tế Florida** là một trường đại học nghiên cứu công lập với khuôn viên chính tại University Park, Florida, Hoa Kỳ. Được thành lập vào năm 1965 bởi Quốc hội Florida, trường
**Hội Nữ Hướng đạo Mỹ** (_Girl Scouts of the United States of America_) là một tổ chức thanh thiếu niên dành cho nữ tại Hoa Kỳ và các bé gái sống ở hải ngoại. Chương
Các quốc gia trên thế giới có đặt căn cứ quân sự của Hoa Kỳ. **Chủ nghĩa đế quốc Mỹ** () là một thuật ngữ nói về sự bành trướng chính trị, kinh tế, quân
Trong Chiến tranh Việt Nam, quân đội Hoa Kỳ và các lực lượng đồng minh đã gây ra hàng loạt tội ác như giết người, hãm hiếp, đánh đập tù nhân, ném bom vào thường
**Cộng hòa Guinea Xích Đạo** (phiên âm tiếng Việt: **Ghi-nê Xích Đạo**; tiếng Tây Ban Nha: _República de Guinea Ecuatorial_) là một quốc gia nằm ở bờ biển phía tây của Trung Phi, với diện
phải|nhỏ|Quốc kỳ Đế quốc Anh Một **lãnh thổ tự trị** () là bất kỳ quốc gia nào trong số nhiều quốc gia tự quản của Đế quốc Anh, trước đây được gọi chung là **Khối
**Luật Jim Crow** là hệ thống luật lệ áp đặt chế độ phân chia chủng tộc của các tiểu bang và địa phương ở miền Nam Hoa Kỳ vào cuối thế kỷ 19 và đầu
**Philippines** (, tiếng Tagalog/tiếng Filipino: _"Pilipinas"_ hoặc _"Filipinas"_, Hán-Việt: _"Phi Luật Tân"_)_,_ tên gọi chính thức là **Cộng hòa Philippines** (tiếng Tagalog/tiếng Filipino: _Republika ng Pilipinas_; tiếng Anh: _Republic of the Philippines_) là một đảo
**Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam**, thường được gọi ngắn gọn hơn là **Bộ Quốc phòng Việt Nam** hay đơn giản là **Bộ Quốc phòng** (**BQP**), là cơ quan
Các cuộc thảm sát và bất ổn dân sự ở Indonesia từ năm 1965 đến 1966 nhằm vào các thành viên và những người ủng hộ Đảng Cộng sản Indonesia (PKI), cũng như các nhóm
**Trung Hoa Dân Quốc dời sang Đài Loan** còn được gọi là **Quốc Dân Đảng dời sang Đài Loan** hay **Cuộc rút lui vĩ đại **đề cập đến cuộc di cư của chính phủ Trung
**Tưởng Kinh Quốc** (; POJ: ChiúⁿKeng-kok; phương ngữ Thượng Hải/phương ngữ Ninh Bá: tɕiã.tɕiŋ.ko?) (27 tháng 4 năm 1910 - 13 tháng 1 năm 1988) là một nhà chính trị người Đài Loan. Ông đã
phải trải qua không ít thăng trầm, nhưng các Luật sư, dù là người Việt hay người nước ngoài, vẫn luôn để lại những dấu ấn đặc biệt khi tham gia hành nghề dưới các
**Lịch sử Bộ Quốc phòng Việt Nam** tính từ ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
**Thế hệ Z** (tiếng Anh: _Generation Z_, viết tắt: **Gen Z**), đôi khi còn được gọi là **Zoomers**, là nhóm nhân khẩu học nằm giữa thế hệ Millennial và thế hệ Alpha. Các nhà nghiên
**Người Mỹ gốc Đài Loan** (, ) là người Mỹ mang nguồn gốc tổ tổ tiên toàn phần hoặc một phần từ đảo Đài Loan hiện đang tranh chấp ở Đông Á. Điều này bao
Trong hệ thống giáo dục Trung Quốc, giáo dục chủ yếu được quản lý bởi hệ thống giáo dục công lập do nhà nước điều hành, nằm dưới sự quản lý của Bộ Giáo dục.
**Việt Nam Quốc Dân Đảng** (**VNQDĐ**; chữ Hán: ), gọi tắt là **Việt Quốc**, là một đảng chính trị dân tộc và xã hội chủ nghĩa dân chủ chủ trương tìm kiếm độc lập khỏi
**Hội Nữ Hướng đạo Anh Quốc** (_Girlguiding UK_) là tổ chức Nữ Hướng đạo quốc gia của Anh Quốc. Nữ Hướng đạo bắt đầu ở Vương quốc Anh vào năm 1910 sau khi Robert Baden-Powell
**Đại Việt Quốc dân Đảng**, thường được gọi tắt là **Đảng Đại Việt**, là một đảng phái chính trị của Việt Nam, thành lập từ năm 1939. Đảng Đại Việt là một trong những đảng
, cũng thường được gọi với tên phiên âm của nó là **Kuomintang** (**KMT**; ), là chính đảng do Tôn Trung Sơn và các chí sỹ của ông sáng lập và tồn tại cho đến
**Đảng Cộng sản Trung Quốc** (; Hán-Việt: Trung Quốc Cộng sản Đảng), một số văn kiện tiếng Việt còn gọi là **Đảng Cộng sản Tàu**, là đảng chính trị thành lập và điều hành Cộng
**Đại Quốc hội Thổ Nhĩ Kỳ** (, viết tắt là **TBMM**) là cơ quan lập pháp của Thổ Nhĩ Kỳ theo Hiến pháp Thổ Nhĩ Kỳ. Đại Quốc hội được thành lập vào ngày 23
**Lê Quang Đạo** (tên khai sinh là **Nguyễn Đức Nguyện**, 8 tháng 8 năm 1921 – 24 tháng 7 năm 1999), là một chính khách của Việt Nam, ông giữ chức Chủ tịch Quốc hội
**Đại học Quốc gia Singapore**, thường được gọi tắt là **NUS**, là viện đại học lâu đời và lớn nhất về số lượng sinh viên tại Singapore. Là viện đại học đầu tiên được thành
thumb|[[Cecil Rhodes và dự án đường sắt Cape-Cairo. Rhodes thích "tô bản đồ nước Anh màu đỏ" và tuyên bố: "tất cả những ngôi sao này... những thế giới bao la vẫn còn ngoài tầm
thế=Membership of the Convention on the Elimination of All Forms of Racial Discrimination|phải|nhỏ|400x400px| Tư cách thành viên của Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc: **Công ước quốc tế về
Trường **Đại học Kỹ thuật Quốc gia Moskva Bauman** (_tiếng Nga_: Московский государственный технический университет им. Н. Э. Баумана) là trường đại học kỹ thuật số một nước Nga, nơi đây là cái nôi đào
**Tuyên bố chung của Giáo hoàng Phanxicô và Thượng phụ Kirilô** đã được Giáo hoàng Phanxicô và Thượng phụ Kirilô của Moskva ký kết lần đầu tiên trong chuyến thăm lịch sử tháng 2 năm
**Quốc gia liên kết** () là đối tác nhỏ trong mối quan hệ chính thức, tự do giữa một lãnh thổ chính trị ở cấp độ nhà nước với một quốc gia (thường là lớn
**Vườn quốc gia và Khu bảo tồn Katmai** là một vườn quốc gia và khu bảo tồn của Mỹ nằm ở miền nam Alaska, nổi tiếng với Thung lũng Vạn khói (Valley of Ten Thousand
**Đô la Mã Lai và Borneo thuộc Anh** là tiền tệ hợp pháp của Mã Lai, thuộc địa Singapore (cho đến năm 1963, khi nó được sáp nhập với Malaysia sớm để trở thành độc
**Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật** (tiếng Anh: _Science and Technics Publishing House_) thành lập năm 1960 tại Việt Nam theo quyết định số 185-KHH/QĐ (ngày 09 tháng 6 năm 1960) của Ủy
**J. B. Pritzker** (hay **Jay Robert** "**J. B.**" **Pritzker**, sinh ngày 19 tháng 1 năm 1965) là một doanh nhân, luật gia, nhà từ thiện và chính trị gia người Mỹ gốc Do Thái của
**_Ketuanan Melayu_** (nghĩa là "bá quyền của người Mã Lai") là một khái niệm chính trị nhấn mạnh tính ưu việt của người Mã Lai tại Malaysia hiện nay. Người Mã Lai tại Malaysia yêu
**John Sidney McCain III ** (29 tháng 8 năm 1936 – 25 tháng 8 năm 2018) là Thượng nghị sĩ thâm niên của Hoa Kỳ, người tiểu bang Arizona và là người được Đảng Cộng
**Ronald Wilson Reagan** ( ; 6 tháng 2 năm 19115 tháng 6 năm 2004) là một chính trị gia người Mỹ, tổng thống thứ 40 của Hoa Kỳ từ năm 1981 đến năm 1989. Là
**Barack Hussein Obama II** ( ; sinh ngày 4 tháng 8 năm 1961) là một chính trị gia, luật sư và tác giả người Mỹ, tổng thống thứ 44 của Hoa Kỳ từ năm 2009