Đảng Tân Đại Việt là một đảng phái chính trị tách rời từ Đại Việt Quốc dân đảng vào năm 1964. Cũng như Đại Việt Quốc dân Đảng, đảng này cũng lấy Chủ nghĩa dân tộc sinh tồn làm nền tảng lý thuyết.
Lịch sử
Bước ra tham chính
Sau khi Tổng thống Diệm bị lật đổ bởi cuộc đảo chính năm 1963, các đảng phái chính trị đối lập, trong đó có Đại Việt Quốc dân đảng, hoạt động trở lại. Tuy nhiên, giữa các lãnh đạo của Đại Việt đã có sự phân hóa trầm trọng. Trung ương đảng sau năm 1964 không nhóm họp nữa vì những chia rẽ nội bộ.
Nguyên do chính là khác biệt căn bản về đường lối đấu tranh. Nguyễn Ngọc Huy chủ trương bỏ phương thức cách mạng quân sự mà theo hẳn phương pháp ôn hòa qua lá phiếu.
Ngày 14 tháng 11 năm 1964, một nhóm các đảng viên Đại Việt, chủ yếu là các đảng viên trẻ ở vùng Lục tỉnh, tập hợp và lập ra một chính đảng mới lấy tên là Đảng Tân Đại Việt, với cờ hiệu giống Đại Việt Quốc dân đảng, nhưng chen một dải màu vàng vào giữa nền đỏ. Tuy Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy chính là lãnh tụ, nhưng giữ chức Tổng thư ký và để ông Phan Thông Thảo làm Chủ tịch đầu tiên. Giáo sư Huy cũng là một người trong phái đoàn Việt Nam Cộng hòa ở Hòa đàm Paris. Tân Đại Việt còn lập ra tổ chức ngoại vi Phong trào Quốc gia Cấp tiến để thu hút các thành phần không phải đảng viên nhưng hợp tác được với nhau.
Bên cạnh Tân Đại Việt, một nhóm các đảng viên Đại Việt khác, thành phần nòng cốt khu vực Quảng Trị và Thừa Thiên cũng tập hợp lại, đến ngày 25 tháng 12 năm 1965 ra tuyên cáo thành lập chính đảng với tên mới Đảng Đại Việt Cách mạng. Cờ hiệu của Đại Việt Cách mạng cũng thay đổi, giữ sao trắng trong vòng tròn xanh nhưng nửa trên của cờ màu đỏ, nửa dưới màu vàng. Ông Hà Thúc Ký là Chủ tịch kiêm Tổng Bí thư của đảng, Trần Việt Sơn làm Phó tổng bí thư.
Bên cạnh hai nhóm này, còn có một số nhóm đảng viên vẫn giữ lại danh xưng Đại Việt Quốc dân đảng, nhưng hoạt động độc lập và không có sự liên kết với nhau. Mãi đến năm 1972, các đảng viên Đại Việt còn lại mới tổ chức đại hội hợp nhất, do Giáo sư Phạm Đăng Cảnh làm Chưởng nhiệm.
Tuy vậy, xét về tổng quan, Đại Việt (bao gồm cả Tân Đại Việt, Đại Việt Cách mạng và Đại Việt Quốc dân đảng) là một đảng phái chính trị lớn ở miền Nam bấy giờ. Một số đảng viên tên tuổi tham chính trong chính phủ Việt Nam Cộng hòa như:
Bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn: Phó Thủ tướng
Hà Thúc Ký: Tổng trưởng Nội vụ
Bác sĩ Phan Huy Quát: Thủ tướng
Đại tướng Trần Thiện Khiêm: Thủ tướng Chính phủ
Lê Quang Lưỡng (Dù)
Chung Tấn Cang (Hải Quân)
Đỗ Kiến Nhiễu (Đô Trưởng)
Trong cuộc tuyển cử Thượng viện Quốc hội Việt Nam Cộng hòa năm 1967, liên danh của Đại Việt là một trong 6 liên danh chấp chính. Số đảng viên vào cuối thập niên 1960 là khoảng 20.000 người.
Tập san Đuốc Việt và báo Tự quyết làm cơ quan ngôn luận và liên lạc của Đảng. Đảng cũng nắm giữ hai tờ báo Saigon Post (Anh ngữ) và Chính luận, là một trong những tờ nhật báo lớn nhất miền Nam.
Tái tổ chức ở hải ngoại
Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, đại bộ phận của Đại Việt thoát ra nước ngoài. Bắt đầu từ năm 1981, Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, với các đảng viên Tân Đại Việt làm nòng cốt, lập ra Liên minh Dân chủ Việt Nam, vận động kết hợp mọi đảng viên Đại Việt cũ nay lưu vong ở Bắc Mỹ, Úc và Châu Âu trở lại sinh hoạt Đảng. Tân Đại Việt không hoạt động công khai, phần lớn các đảng viên hoạt động với tư cách đoàn viên LMDCVN. Ngày 28 tháng 5 năm 1988, Nguyễn Ngọc Huy và cựu Đại sứ Bùi Diễm tổ chức cuộc họp với các lãnh đạo của ba hệ phái Đại Việt tại San José, California, đề nghị thống nhất Đại Việt Quốc dân Đảng, nhưng không thành. Ngày 28 tháng 7 năm 1990, Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy qua đời tại Paris và ý định thống nhất 3 đảng Đại Việt cũng tan thành mây khói.
Sau khi giáo sư Huy qua đời, một lãnh đạo tạm thời của Tân Đại Việt là Cao Minh Châu tạm thời nắm quyền chỉ đạo ở hải ngoại. Đầu năm 1992, ông Châu ra thông báo cử giáo sư Nguyễn Đình Huy, bấy giờ mới được phóng thích ở Việt Nam, làm Đảng trưởng kiêm phụ trách phát triển phong trào trong nước. Ngày 16 tháng 7 năm 1992, ông Nguyễn Đình Huy đã cho thành lập tổ chức "Phong trào thống nhất dân tộc và xây dựng dân chủ", nhằm mục đích hình thành tổ chức chính trị chuẩn bị cho việc "đa nguyên đa đảng" tại Việt Nam. Tuy nhiên, chỉ hơn 1 năm sau thì tổ chức này bị nhà nước Việt Nam giải thể với lý do "Hoạt động nhằm lật đổ chánh quyền nhân dân".
Tân Đại Việt vẫn tiếp tục không hoạt động công khai, ông Trương Vỹ Trí, cựu dân biểu VNCH, là Chủ Tịch. Mãi đến năm 2002, tổ chức hải ngoại của Tân Đại Việt mới nhóm họp trở lại với ông Ung Ngọc Nghĩa (Hoài Sơn) làm Chủ tịch qua 2 nhiệm kỳ. Năm 2007, ông Nguyễn Ngọc Sẳng kế nhiệm và đến năm 2009, Bác sĩ Mã Xái, cựu dân biểu VNCH, được bầu làm Chủ tịch Đảng, cùng với Đệ I Phó Chủ tịch ông Lê Minh Nguyên, Đệ II Phó Chủ tịch ông Hồ Trung, và Tổng thư ký ông Huỳnh Công Luận.
Cuối tháng 9/2013, Tân Đại Việt tổ chức Đại hội Thế giới kỳ 7 tại Nam California và bầu cử thành phần lãnh đạo nhiệm kỳ 2013-2017. Bác sĩ Mã Xái tái đắc cử chức Chủ tịch. Đệ I Phó Chủ tịch ông Lê Minh Nguyên, Đệ II Phó Chủ tịch Kỹ sư Phạm Đức Duy, Tổng thư ký ông Dương Tấn Hải là thành phần lãnh đạo Ban Chấp hành Trung ương đảng Tân Đại Việt. Tân Đại Việt tu chính Hiến chương và Đảng quy, bắt đầu công khai hoạt động tại hải ngoại, và là một trong những tổ chức chính trị năng động của người Việt quốc gia.
Giữa tháng 11/2017, đảng Tân Đại Việt tổ chức Đại hội Thế giới kỳ 8 tại Nam California và bầu cử thành phần lãnh đạo nhiệm kỳ 2017-2021. Bác sĩ Mã Xái không tái ứng cử. Thành phần lãnh đạo Ban Chấp hành Trung ương đảng Tân Đại Việt nhiệm kỳ mới gồm Chủ tịch ông Lê Minh Nguyên, Đệ I Phó Chủ tịch Kỹ sư Phạm Đức Duy, Đệ II Phó Chủ tịch ông Hoàng Đình Khuê và Tổng thư ký ông Dương Tấn Hải.
Đảng viên nổi bật
- Nguyễn Ngọc Huy: sáng lập đảng và là chủ tịch đảng đầu tiên
- Lê Minh Nguyên
- Dương Tấn Hải
- Phạm Đức Duy
- Hoàng Đình Khuê
- Phan Thông Thảo
👁️
2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Đảng Tân Đại Việt** là một đảng phái chính trị tách rời từ Đại Việt Quốc dân đảng vào năm 1964. Cũng như Đại Việt Quốc dân Đảng, đảng này cũng lấy Chủ nghĩa dân
**Đại Việt Quốc dân Đảng**, thường được gọi tắt là **Đảng Đại Việt**, là một đảng phái chính trị của Việt Nam, thành lập từ năm 1939. Đảng Đại Việt là một trong những đảng
**Đại Việt Cách mạng Đảng** là một đảng phái chính trị tách rời từ Đại Việt Quốc dân đảng vào năm 1965. Cũng như Đại Việt Quốc dân đảng, đảng này cũng lấy chủ nghĩa
**_Đại Việt sử ký toàn thư_** (), đôi khi gọi tắt là **_Toàn thư_**, là bộ quốc sử viết bằng Hán văn của Việt Nam, viết theo thể biên niên, ghi chép lịch sử Việt
**Đại Việt Duy dân Cách mệnh Đảng** (tiếng Hán: 大越維民革命黨) - còn được gọi tắt là **Việt Duy dân Đảng** (tiếng Hán: 越維民黨) - là một chính đảng do triết gia Lý Đông A thành
**Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XII**, được gọi chính thức là **Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII** là đại hội lần thứ 12 của Đảng Cộng sản Việt
**Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XIII**, tên chính thức là **Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XIII** là Đại hội đại biểu toàn quốc
**Đảng Cộng sản Việt Nam** là đảng cầm quyền và là chính đảng duy nhất được phép hoạt động tại Việt Nam theo Hiến pháp. Theo Cương lĩnh và Điều lệ chính thức hiện nay,
**Tân nhạc**, **nhạc tân thời**, **nhạc cải cách** hay **nhạc nhẹ** là tên gọi thông dụng của dòng nhạc xuất hiện tại Việt Nam vào khoảng năm 1928. Tân nhạc là một phần của **âm
**Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 2** là cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại Việt diễn ra trên lãnh thổ Đại Việt từ cuối tháng 1 đến cuối tháng 5 năm
nhỏ|Nguyễn Ngọc Huy **Nguyễn Ngọc Huy** (1924-1990) là một chính khách Việt Nam Cộng hòa và một nhà thơ, nhà văn người Việt Nam. Ông là một trong những người sáng lập đảng Tân Đại
**Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 3** (theo cách gọi khác ở Việt Nam là **Kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 3**) là cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại
**Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá I** được bầu ra tại Đại hội lần thứ I họp tại Ma Cao tháng 3 năm 1935. Trong suốt khóa (1935-1951), một số
**Chiến tranh Mông Nguyên – Đại Việt lần thứ nhất** hay **Kháng chiến chống Mông Nguyên lần thứ nhất** là cách người Việt Nam gọi cuộc chiến đấu của quân dân Đại Việt chống lại
**Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI**, được gọi chính thức là **Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI**, là đại hội lần thứ mười một của Đảng Cộng sản
**Chiến tranh Mông Nguyên- Đại Việt** hay **Kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên** (tên gọi ở Việt Nam) là một cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc của quân và dân Đại Việt
**Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam**, thường gọi tắt là **Bộ Chính trị**, là cơ quan lãnh đạo và kiểm tra việc thực hiện nghị quyết Đại hội
Đảng kỳ Đảng Cộng sản Việt Nam nhỏ|Đảng huy Đảng Cộng sản Việt Nam|thế= **Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam** diễn ra từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 8 tháng 2
**Thông tấn xã Việt Nam** (**TTXVN**) là hãng thông tấn Quốc gia trực thuộc Chính phủ Việt Nam và là cơ quan thông tin chính thức của Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa
**Đảng Dân chủ Việt Nam** là chính đảng của tư sản dân tộc và tiểu tư sản, trí thức yêu nước và tiến bộ Việt Nam, hoạt động từ năm 1944, tên ban đầu là
**Đại Việt Quốc gia Cách mệnh Ủy viên Hội** là một tổ chức chính trị của người Việt, tồn tại trong một thời gian ngắn ngủi từ 11 tháng 3 đến 19 tháng 4 năm
**Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI** hay còn được gọi **Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI**, **Trung ương Đảng khóa XI** là cơ quan do Đại hội
Đại Việt dưới triều nhà Trần đã có một cuộc tấn công quân sự vào nhà Nguyên vào năm 1313, đời vua Trần Anh Tông. ## Nguyên nhân Theo sử liệu Việt, do quan lại
**Đại hội đại biểu Đảng bộ trực thuộc Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam nhiệm kỳ 2020 -2025**, là các đại hội Đảng bộ các tỉnh thành trực thuộc Trung ương Việt Nam và
**Văn học đời Trần** là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225-1400). ## Tổng quan văn học thời Trần Nước Việt dưới đời Trần xuất hiện nhiều
**Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII** hay còn được gọi **Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII**, **Trung ương Đảng khóa XII** là cơ quan do Đại hội
**Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam** là một cơ quan do Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập để giám sát việc thi hành chính sách
**Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam** (viết tắt là **BCHTW** hoặc **BCHTƯ**) là cơ quan lãnh đạo thường trực cao nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, bầu ra bởi Đại
[[Trần Phú, Đảng viên đầu tiên giữ chức Tổng Bí thư]] **Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam** là người gia nhập và được kết nạp vào đồng thời sinh hoạt trong Đảng Cộng sản
Dưới đây nội dung khái quát về những tổ chức ngoại vi của Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi thành lập (1930) đến nay. ### Hội Phản đế Đồng minh Hội Phản đế Đồng
Trong hệ thống chính trị của Việt Nam sau năm 1975 thì các thành viên của Bộ Chính trị là những nhân vật cao cấp nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam và việc kỷ
**Nguyễn Hữu Trí** (1903 – 1954) là nhà chính trị Việt Nam, nguyên Thủ hiến Bắc phần của chính thể Quốc gia Việt Nam thập niên 1950. Nguyễn Hữu Trí đồng thời là Tổng bí
Đại hội Đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương khóa X gồm 160 ủy viên chính thức và 20 ủy viên dự khuyết. Ban Chấp
**Ban Chỉ đạo Cải cách Tư pháp Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam** là cơ quan tham mưu, giúp Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ đạo
**Ban Tổ chức Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam** là cơ quan tham mưu, giúp việc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, trực tiếp và thường xuyên là Bộ
**Văn học đời Lê sơ** là một giai đoạn văn học Việt Nam dưới thời kỳ đầu nhà Hậu Lê nước Đại Việt từ năm 1428 đến năm 1527. ## Khái quát Các thể loại
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam IX đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương gồm 150 ủy viên chính thức. Ban Chấp hành Trung ương đã bầu ra Bộ Chính trị gồm 15
**Ban Tuyên giáo Trung ương** là cơ quan tham mưu, giúp việc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, trực tiếp và thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư
**Đảng Xã hội Việt Nam** là một chính đảng của giới trí thức Việt Nam, thiên tả, xã hội chủ nghĩa, hoạt động từ năm 1946 đến 1988. ## Lịch sử Đảng Xã hội Việt
nhỏ|Trụ sở Ban Đối ngoại Trung ương Đảng **Ban Đối ngoại Trung ương** là cơ quan tham mưu, giúp việc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, trực tiếp và thường
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam V họp từ ngày 27 đến ngày 31 tháng 3 năm 1982 đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương khóa V (1982-1986) gồm 116 ủy viên chính
**Quan hệ Việt-Chăm** xem như bắt đầu từ năm 968, khi Đinh Tiên Hoàng lập ra nước Đại Cồ Việt, với tư cách là quốc gia độc lập đến năm 1832, khi vua Minh Mạng
**Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI**, hay còn gọi là **Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam**, được tổ chức từ ngày 15
**Đặng Tất** (chữ Hán: 鄧悉 1357-1409) quê ở Hà Tĩnh, làm chức Châu phán Hóa Châu dưới triều nhà Hồ. Nhà Minh xâm chiếm Đại Ngu, họ Hồ thất bại, người Chiêm tiến quân chiếm
**Đại Việt sử ký tiền biên** là bộ sử biên niên gồm 17 quyển, viết bằng chữ Hán do Ngô Thì Sĩ biên soạn, Ngô Thì Nhậm hiệu đính. Bộ sử này được khắc in
**Chiến tranh Đại Việt – Lan Xang** là cuộc chiến giữa nhà Hậu Lê nước Đại Việt với Lan Xang (Lào). Mục đích phát động của Đại Việt là bình định vương quốc Bồn Man
**Đại Việt Quốc gia Liên minh**, sau đổi thành **Việt Nam Quốc dân Hội**, là một tổ chức chính trị liên minh giữa các chính đảng người Việt chủ trương dựa vào thế lực Nhật
**Đại Việt Dân chính Đảng** (tiếng Hán: 大越民政黨) là một chính đảng do nhóm Tự Lực văn đoàn sáng lập, tồn tại từ 1938 đến 1945. ## Lịch sử Sau khi cuộc khởi nghĩa Yên
**Bộ Quốc phòng Việt Nam** có hệ thống học viện và nhà trường hoàn chỉnh, đáp ứng được yêu cầu đào tạo sĩ quan, hạ sĩ quan, nhân viên nghiệp vụ ở mọi cấp các
Một pano kêu gọi thực hiện nghị quyết của Đại hội X **Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X**, được gọi chính thức là **Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ