✨Đại Khural Quốc gia

Đại Khural Quốc gia

Đại Khural Quốc gia (Tiếng Mông Cổ: Улсын Их Хурал, Ulsyn Ikh Khural, tiếng Anh: State Great Assembly hoặc State Great Khural) là quốc hội đơn viện của Mông Cổ, có trụ sở nằm ở Cung điện Chính phủ, Ulaanbaatar.

Ngày 31 tháng 5 năm 2023, Quốc hội Mông Cổ đã thông qua sửa đổi hiến pháp nhằm tăng số ghế từ 76 lên 126.

Lịch sử

1924-1960

Ulsyn Ikh Khural đầu tiên được triệu tập vào tháng 11 năm 1924. Cơ quan này là cơ quan lập pháp của Mông Cổ. Nó ủy thác phần lớn quyền lực của mình cho một ủy ban điều hành Ulsyn Baga Khural (Tiểu Khural). Đại Khural đã tổ chức chín phiên họp từ tháng 11 năm 1924 đến tháng 2 năm 1949. Sau những cải cách bầu cử vào năm 1951, việc đánh số các phiên họp của nó lại bắt đầu. Lần đầu tiên được tổ chức vào tháng 7 năm 1951 và lần thứ ba vào tháng 7 năm 1957.

1960-1992

Năm 1960, một hiến pháp mới được thông qua và cơ quan này được đổi tên thành "Đại Khural Nhân dân" (Tiếng Mông Cổ: Ардын Их Хурал, Ardyn Ikh Khural), nhưng các phiên họp không được đánh số lại. Phiên họp lần thứ tư diễn ra vào tháng 7 năm 1960 và lần cuối cùng vào tháng 9 năm 1992. Trong thuật ngữ của Nga và Mông Cổ, thuật ngữ "Đại Khural Nhân dân" thường được phổ biến trở lại để đề cập đến Khural năm từ 1924-1960 để phân biệt nó với Đại Khural Quốc gia sau năm 1992.

Cuộc bầu cử tự đa đảng đầu tiên ở Mông Cổ được tổ chức vào năm 1990. Sau đó, quốc hội mới được bầu đã thay đổi Hiến pháp, thành lập Baga Khural Quốc gia thay thế Đại Khural Nhân dân làm cơ quan lập pháp cao nhất. Cuộc bầu cử này đã bầu ra chủ tịch đầu tiên, Radnaasümbereliyn Gonchigdorj, và Chủ tịch đầu tiên của Ban thư ký, Byaraa Chimed. Baga Khural Quốc gia có 5 ủy ban thường trực. Đảng Cách mạng Nhân dân Mông Cổ (33), Đảng Dân chủ Mông Cổ (13), Đảng Dân chủ Xã hội Mông Cổ (4), Đảng Tiến bộ Quốc gia Mông Cổ (3) giành được ghế trong quốc hội. Baga Khural Quốc gia đã thông qua 27 bộ luật mới, phê chuẩn 17 hiệp ước và công ước quốc tế cũng như sửa đổi bổ sung 19 bộ luật.

1992-1996

Giai đoạn này, Đại Khural Quốc gia có 10 ủy ban thường trực (giảm xuống còn 6 vào năm 1995). Trong quốc hội Đảng Cách mạng Nhân dân Mông Cổ giành được 70 ghế, Liên minh Dân chủ Mông Cổ, Đảng Dân tộc Mông Cổ và Đảng Xanh giành được 4 ghế, Đảng Dân chủ Xã hội Mông Cổ giành được 1 ghế và ứng viên độc lập giành được 1 ghế. Chủ tịch Quốc hội giai đoạn này là ông Natsag Bagabandi, và Chủ tịch Ban Thư ký là Namsrai Rechnindorj. Đại Khural Quốc gia đã thông qua 137 bộ luật, sửa đổi bổ sung 142 bộ luật, và bãi bỏ 46 bộ luật. Quốc hội cũng đã phê chuẩn 40 hiệp ước và công ước quốc tế.

1996-2000

Đại Khural Quốc gia có 5 ủy ban thường trực trong giai đoạn 1996-1997 (tăng lên 7 ủy ban thường trực trong giai đoạn 1997-2000). Trong Quốc hội, Đảng Liên minh Dân chủ giành được 50 ghế, Đảng Cách mạng Nhân dân Mông Cổ giành được 25 ghế, Đảng Bảo thủ Mông Cổ giành được 1 ghế. Đại hội đã bầu ông Radnaasumberel Gonghigdroj tái đắc cử Chủ tịch Quốc hội. Chủ tịch Đoàn Chủ tịch là ông Baasanganobo Enebish. Giai đoạn này, Nhà nước Great Khural đã thông qua 173 bộ luật mới, sửa đổi bổ sung 255 bộ luật và bãi bỏ 32 bộ luật. Quốc hội cũng đã phê chuẩn 71 hiệp ước và công ước quốc tế.

2000–2004

Đại Khural Quốc gia có 7 ủy ban thường trực. Trong Quốc hội, Đảng Cách mạng Nhân dân Mông Cổ giành được 72 ghế, Liên minh dân chủ giành được 1 ghế, Đảng ý chí dân sự - Đảng Xanh giành được 1 ghế, Tổ quốc - Đảng Dân chủ Xã hội Mông Cổ giành được 1 ghế và ứng viên độc lập được 1 ghế. Đại hội bầu ông Baasanganobo Enebish (2000 - 2001), Dagdankhuu Batbaatar (2001 - 2003) và Namsraijav Luvsanjav (2003 - 2004) làm Chủ tịch Đoàn Chủ tịch. Đại hội cũng đã bầu ông Sanjbegz Yumur-Ochir làm Chủ tịch Quốc hội. Nhà nước Great Khural đã thông qua 140 bộ luật mới, sửa đổi 443 bộ luật, và bãi bỏ 51 bộ luật. Quốc hội cũng đã phê chuẩn 110 hiệp ước và công ước quốc tế.

2004-2008

Đại Khural Quốc gia có 11 ủy ban thường trực (Số ủy ban thường trực đã giảm xuống còn 7 trong năm 2006). Có 7 đảng chính trị và liên minh của ba đảng tham gia vào cuộc bầu cử. Đảng Cách mạng Nhân dân Mông Cổ giành được 37 ghế, Liên minh Tổ quốc và Dân chủ giành được 35 ghế, Đảng Cộng hòa giành được 1 ghế và 3 ứng viên độc lập giành được 3 ghế trong Quốc hội. Đại hội đã bầu ông Nambar Enkhbayar làm Chủ tịch Quốc hội (2004 - 2005), ông Tsend Nyamdorj (2005 - 2007) và ông Danzan Lundeejanstan (2007 - 2008). Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Namsraijav Luvsanjav tái đắc cử. Nhà nước Great Khural đã thông qua 89 bộ luật mới, sửa đổi 336 bộ luật, cũng như bãi bỏ 50 bộ luật. Quốc hội cũng đã phê chuẩn 38 hiệp ước và công ước quốc tế.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Đại Khural Quốc gia** (Tiếng Mông Cổ: Улсын Их Хурал, _Ulsyn Ikh Khural_, tiếng Anh: State Great Assembly hoặc State Great Khural) là quốc hội đơn viện của Mông Cổ, có trụ sở nằm ở
Hiến pháp Mông Cổ được thông qua vào năm 1992 quy định rằng Tổng thống Mông Cổ là "người đứng đầu nhà nước và là hiện thân sự thống nhất của nhân dân Mông Cổ".
**Đại hãn quốc Mông Cổ** () là chính phủ Mông Cổ (Ngoại Mông Cổ) giữa năm 1911 và 1919, và một lần nữa từ 1921 tới 1924. Vào mùa xuân năm 1911, một số quý
**Mông Cổ** là một quốc gia nội lục nằm tại nút giao giữa ba khu vực Trung, Bắc và Đông của châu Á. Lãnh thổ Mông Cổ gần tương ứng với vùng Ngoại Mông trong
**Sükhbaataryn Yanjmaa** (, nhũ danh Nemendeyen Yanjmaa, ; 15 tháng 2 năm 1893–1963) là góa phụ của lãnh tụ cách mạng Mông Cổ Damdin Sükhbaatar, bà là Chủ tịch Đoàn chủ tịch Đại Khural Quốc
**Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ** ( (БНМАУ), Tập tin:Mongolian People's Republic.svg, _Bügd Nairamdakh Mongol Ard Uls (BNMAU)_) là một nhà nước xã hội chủ nghĩa tồn tại ở vùng Đông Á từ năm 1924
**Tsakhiagiin Elbegdorj** (, latinh hóa: _Cahiagiin Elbegdorƶ_, đôi khi còn được gọi là **Elbegdorj Tsakhia**, sinh ngày 30 tháng 3 năm 1963) là Tổng thống thứ tư của Mông Cổ. Ông đã giành chiến thắng
Vị trí Cộng hòa Nhân dân Tuva **Cộng hòa Nhân dân Tuva** (hay **Cộng hòa Nhân dân Tannu Tuva**; tiếng Tuva: Tьвa Arat Respuвlik, Тыва Арат Республик, _Tyva Arat Respublik_; 1921-1944) là một nhà nước
**Mông Cổ** hiện nay là một nước Cộng hòa dân chủ đại nghị bán tổng thống, theo đó tổng thống được bầu cử trực tiếp. Nhân dân cũng chọn ra các đại biểu quốc hội,
**Khertek Amyrbitovna Anchimaa-Toka** (, 1 tháng 1 năm 1912 – 4 tháng 11 năm 2008) là một chính trị gia Tuva/Liên Xô, trong giai đoạn 1940–44 bà giữ chức chủ tịch Tiểu Khural (quốc hội)
**Thủ tướng Mông Cổ** () là người đứng đầu chính phủ của Mông Cổ. Thủ tướng do Đại Khural Quốc gia bầu, bãi nhiệm thông qua bỏ phiếu bất tín nhiệm. Thủ tướng đương nhiệm
**Natsagiin Bagabandi** (; sinh 22 tháng 4 năm 1950) là chính trị gia người Mông Cổ và Giám đốc Oyu Tolgoi LLC. Trước đó, ông là Tổng thống Mông Cổ từ năm 1997 đến năm
**Khatgal** (tiếng Mông Cổ: Хатгал, ) là một thị trấn ở tỉnh Khövsgöl, Mông Cổ, nằm tại bờ phía nam của hồ Khövsgöl. Khatgal có một sân bay và một cảng nhỏ, cùng với một
**Cộng hòa Tyva** (; , _Tyva Respublika_), **Tuva** () hay **Đường Nỗ Ô Lương Hải** (唐努烏梁海 - tên gọi vào thời nhà Thanh), là một nước cộng hòa thuộc chủ thể liên bang của Nga.
**Kurultai** (tiếng Mông Cổ: , Хуралдай, _Khuruldai_; tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: _Kurultay_; phiên âm Hán Việt: _Hốt lý lặc thai_ hay _Khố lý lặc đài_) là một hội đồng quân sự và chính trị cổ
**Valentin Ivanovich Rassadin** (; 12 tháng 11 năm 1939 – 15 tháng 8 năm 2017) là một nhà ngôn ngữ học Liên Xô và Nga. Ông nổi tiếng với các tài liệu và nghiên cứu
thumb|Ghi âm nhạc cụ của bài hát "**Ta là người Tuva**" (, _Men – tyva men_) là quốc ca của Cộng hoà Tuva, một chủ thể liên bang của Nga. Nó được phổ nhạc bởi
**Miyegombyn Enkhbold** (Tiếng Mông Cổ: Миеэгомбын Энхболд), sinh ngày 19 tháng 7 năm 1964 là một chính trị gia Mông Cổ, ông từng là Thủ tướng Mông Cổ từ tháng 1 năm 2006 đến tháng
**Hình phạt tử hình** đã được bãi bỏ ở Mông Cổ kể từ năm 2016, sau một lệnh cấm được ban hành tám năm trước đó. ## Lịch sử áp dụng Tại thời điểm bãi
**Cộng hòa Buryatia** (; tiếng Buryat: Буряад Улас (_Buryaad Ulas_), , tiếng Mông Cổ: Буриад Улс, (_Buriad Uls_)) hay **Cộng hòa Bố Lí Á Đặc** (布里亞特共和國) là một chủ thể liên bang của Nga (một
**Khaltmaagiin Battulga** (Tiếng Mông Cổ: Халтмаагийн Баттулга), sinh ngày 3 tháng 3 năm 1963 là một chính khách Mông Cổ và là cựu Tổng thống Mông Cổ. Ông từng là Ủy viên của Nhà nước