✨Đá

Đá

nhỏ|280x280px|Một mỏm đá dọc theo một [[Suối|con suối trên núi gần Orosí, Costa Rica.]] Đá hay nham thạch là tổ hợp có quy luật của các loại khoáng vật, có thể là một thể địa chất có lịch sử hình thành riêng biệt. Cách phân loại tổng quát nhất dựa trên nguồn gốc thành tạo gồm đá macma, đá trầm tích và đá biến chất. Đôi khi thiên thạch được xem là một nhóm đá riêng có nguồn gốc từ vũ trụ.

"Nham thạch" là một từ Hán Việt dùng để chỉ đá theo thiên hướng học thuật hoặc một cách chung chung, trong đó nham (岩) chỉ đá tảng, đá núi và thạch (石) chỉ đá hòn, đá sỏi.

Với thời gian đời người đá không có sự biến đổi nhưng chúng có thể bị biến đổi bởi các quá trình địa chất diễn ra trong thời gian rất dài. Chu trình thạch học mô tả các giai đoạn mà các loại đá được hình thành và biến chuyển từ dạng này sang dạng khác. Đá magma hình thành khi dung nham đông nguội trên bề mặt hoặc kết tinh ở dưới sâu. Các đá trầm tích được hình thành từ quá trình lắng đọng vật liệu, rồi nén ép thành đá. Trong khi đá biến chất có thể hình thành từ các loại đá magma, đá trầm tích hay các loại đá biến chất có trước dưới tác động của nhiệt độ và áp suất.

Đá là một loại vật liệu gắn liền với lịch sử phát triển của loài người. Từ thời đại đồ đá con người đã biết dùng đá để làm vũ khí tự vệ, săn bắn, công cụ sản xuất. Đặc biệt, đá được dùng trong xây dựng những công trình mà ngày nay chúng trở nên nổi tiếng như Kim tự tháp Ai Cập, Angkor Wat, thành Babylon, El-Djem, Colisée, Bourgogne, Épidayre.

Chu trình đá

phải|Sơ đồ thạch học. 1 = [[macma; 2 = kết tinh; 3 = đá magma; 4 = bào mòn; 5 = trầm tích; 6 = lắng đọng & đá trầm tích; 7 = chôn vùi kiến tạo & biến chất; 8 = đá biến chất; 9 = nóng chảy.]] Chu trình thạch học hay còn gọi là vòng tuần hoàn của đá nằm ở lớp thạch quyển thuộc vỏ Trái Đất. Cũng giống như nước hay nhiều loại hợp chất khác, chúng biến đổi tuần tự theo một chu trình xác định và quay vòng một cách có hệ thống tạo nên vòng tuần hoàn khép kín.

Các đá magma được kết tinh bên dưới lớp vỏ từ magma nóng hoặc được đưa lên trên mặt để hình thành đá núi lửa. Các quá trình bóc mòn, phong hóa diễn ra trên bề mặt làm đá vỡ ra được mang đi nơi khác lắng đọng lại ở những môi trường có năng lượng thấp như hồ, biển, vv... Sau khi lắng đọng thường do áp lực của chính bản thân vật liệu làm các vật liệu trầm tích bị cố kết để hình thành nên đá trầm tích. Một khi các đá trầm tích hoặc magma chịu tác động của môi trường có nhiệt độ hoặc áp suất cao hoặc cả hai yếu tố trên làm cho chúng bị biến đổi về cả thành phần và cấu trúc để tạo ra các đá biến chất. Cả ba loại đá này đều có thể bị hút chìm vào bên trong manti ở các đới hút chìm và tan chảy thành magma lỏng, và cứ thế quá trình tiếp tục tuần hoàn.

Các đá cũng như thế, chúng cũng biến đổi tuần tự theo những chu trình xác định dưới những điều kiện tác động về hóa lý khác nhau từ môi trường như bị phong hóa, lắng đọng, nóng chảy, kết tinh, đông kết..vv. Ta có thể khởi đầu vòng tuần hoàn từ vật liệu magma có trong lòng đất.

(1) Magma → Đá magma phun trào → Trầm tích → Đá trầm tích → Đá biến chất → magma

(2) Magma → Đá magma xâm nhập → Trầm tích → Đá trầm tích → Đá biến chất → magma

Đây có thể coi là hai vòng tuần hoàn lớn vì ngoài ra còn có các vòng tuần hoàn nhỏ hơn cũng xuất phát từ vật liệu ban đầu là magma. Nhưng những vòng tuần hoàn nhỏ này có đường đi ngắn hơn, bỏ qua một số đá nào đó.

(3) Đá magma → Đá magma phun trào → Đá biến chất → magma

(4) Đá magma → Đá magma xâm nhập → Đá biến chất → magma

(5) Đá biến chất (có thể xuất phát từ thiên thạch)→ Trầm tích → Đá trầm tích → Đá biến chất → magma

(6) Đá trầm tích (có thể xuất phát từ thiên thạch)→ Trầm tích → Đá trầm tích → Đá biến chất → magma

Đá magma

Đá magma được hình thành từ kết quả nguội lạnh, đông cứng của dung dịch silicat nóng chảy (dung dịch macma) và được chia (theo nguồn gốc thành tạo) làm hai loại macma chính: macma xâm nhập và macma phun trào. Macma này có thể có nguồn gốc từ manti của Trái Đất hoặc từ các loại đá đã tồn tại trước đó bị nóng chảy do các thay đổi nhiệt độ áp suất cực cao. Khoảng 64,7% thể trích vỏ Trái Đất được cấu tạo bởi các đá magma, trong đó, 66% là basalt và gabro, 16% là granit, và 17% granodiorit và diorit. Chỉ có 0,6% là syenit và 0,3% peridotit và dunit. Vỏ đại dương là 99% basalt, một loại đá có thành phần mafic. Granit và các đá tương tự cấu tạo nên phần lớn vỏ lục địa. Trên 700 loại đá magma đã được miêu tả lại, phần lớn trong chúng được tạo ra gần bề mặt lớp vỏ Trái Đất. Các loại đá magma chiếm khoảng 95% toàn bộ phần phía trên của lớp vỏ Trái Đất, nhưng chúng phân bố phổ biến hơn ở bên dưới lớp đá trầm tích và đá biến chất tương đối mỏng nhưng phân bố rộng.

Thành phần hóa học & khoáng vật

nhỏ|Chuỗi phản ứng Bowen: không liên tục (trái); liên tục (phải) Người ta dựa vào thần phần hóa học của đá magma, đặc biệt là silic dioxide (SiO2) để phân ra thành các đá base, trung tính và axit. Ngoài ra, việc phân loại theo thành phần hóa có thể gồm siêu mafic, mafic (tương đương với base) hay đá sẫm màu, trung tính và felsic (tương đương với axit) hay đá sáng màu. Xu hướng ngày nay người ta dùng cách gọi mafic, felsic để tránh nhầm lẫn với tính chất axit, base trong hóa học. Thuật ngữ felsic được hình thành khi ghép các từ fel của fenspat (tiếng Anh là Felspar) và si của silic. Từ mafic cũng hình thành theo cách tương tự: ma của magiê và f của ferrum (chỉ sắt) trong tiếng Latinh. Các đá felsic là các đá sáng màu do chứa nhiều natri và kali hơn so với các đá mafic. Các đá felsic có nhiệt độ nóng chảy thấp hơn nhưng bền hơn trong điều kiện phong hóa so với đá mafic.]] Đá magma chia theo thành phần SiO2 và theo môi trường thành tạo được miêu tả trong bảng bên dưới.

Đá magma xâm nhập

Đá magma xâm nhập được thành tạo khi dung dịch macma nguội đi và các tinh thể khoáng vật kết tinh chậm bên trong vỏ Trái Đất. Các tinh thể kết tinh rõ ràng, các đá loại này thường có cấu tạo đặc sít. Sự kết tinh của dung dịch magma trong giai đoạn sau có môi trường thuận lợi để hình thành loại đá có kích thước hạt rất to như pegmatit. Các đá xâm nhập có mặt trong các dãy núi cổ và hiện đại, tuy nhiên chúng chỉ có trên các lục địa.

Đá mạch

Đá mạch là các loại đá xâm nhập khi magma đi lên theo các khe nứt kiến tạo, đứt gãy hoặc các đá có trước bị yếu đi do các yếu tố kiến tạo. Các quá trình hình thành loại đá này có thể xảy ra trên cạn hoặc dưới đáy biển. Quá trình kết tinh có thể xảy ra ở các cấp áp suất và nhiệt độ đa dạng tùy thuộc vào vị trí và thế nằm của chúng. Chúng được chia như sau:

  • Thể bất chỉnh hợp: Đá thể tường (dike).
  • Thể chỉnh hợp: Đá thể bàn hay đá thể bảng (sill), đá thể nấm (laccolith) và đá thể bồn (lopolith).

Đá magma phun trào

Đá magma phun trào được thành tạo khi dung dịch magma phun trào lên trên bề mặt đất; có sự giải phóng các chất khí có trong dung dịch macma một cách mãnh liệt, các đá macma phún xuất thường có cấu tạo rỗng xốp.

Trên mặt đất, do nguội lạnh nhanh, macma không kịp kết tinh, hoặc chỉ kết tinh được một bộ phận với kích thước tinh thể rất nhỏ, chưa hoàn chỉnh, còn đại bộ phận tồn tại ở dạng vô đình hình, trong đá có lẫn nhiều bọt khí (do đang sôi và bị nguội lạnh nhanh): đó là dạng macma phún xuất chặt chẽ. Ví dụ Đá diabase, bazan, andezit. Có tính chất rỗng nhẹ, cứng và rất giòn. Sử dụng làm cốt liệu cho bê tông nhẹ, dụng làm phụ gia hoạt tính cho bê tông và xi măng…

thumb|Mạch diabase (màu đen) cắt qua đá vôi ở [[Arizona|260x260px]]

Khi macma đang sủi bọt, gặp lạnh đông lại nên rất xốp và nhẹ, hoặc phần macma bị phun lên cao, bay xa, nguội nhanh, hơi nước, khí thoát ra nhiều nên có kết cấu rỗng vụn, lỗ nhỏ: đó là dạng macma phún xuất rời rạc. Ví dụ Tro, túp núi lửa, túp dung nham. Tính chất nhẹ. Dùng làm phụ gia trơ cho bê tông và xi măng. Ngoài các núi lửa trên đất liền, một lượng lớn đá này hình thành một cách liên tục ở các sống núi giữa đại dương.

Thế nằm của đá

Những yếu tố ảnh hưởng đến dạng nằm của đá magma

  • Hoạt tính của magma: Hoạt tính của magma liên quan tới tác dụng hóa học của magma. Nó được thể hiện thông qua hàm lượng chất bốc, độ nhớt, trọng lực, áp suất thủy tĩnh... Hoạt tính còn liên quan đến: Trọng lực do sự chênh lệch tỷ trọng giữa đá magma và đá vây quanh: khiến cho magma di chuyển vào đá vây quanh khi có điều kiện thuận lợi. Áp suất thủy tĩnh (là áp suất của các khối đá trên đè xuống các khối đá dưới) do đó mà magma ở dưới độ sâu càng lớn thì có áp suất thủy tĩnh càng lớn và lò magma luôn có xu hướng dâng lên các tầng trên của Vỏ Trái Đất để tạo nên các thể xâm nhập dạng vỉa, nấm... Sự phá huỷ các cân bằng tướng khí lỏng của magma, magma có áp suất khí cao khi dâng lên phần nông của Vỏ Trái Đất, áp suất mái giảm đi có thể gây nổ và tạo các ống nổ. Độ nhớt của magma và độ nhớt này ảnh hưởng đến hình dạng của thể đá magma: độ nhớt của magma phụ thuộc vào thành phần hóa học của magma, magma có độ nhớt càng thấp thì càng dễ chảy tràn và ngược lại (magma base có độ nhớt thấp thì khi đưa lên bề mặt thường chảy tràn còn magma axit có độ nhớt cao thì thường tạo khối).
  • Chất bốc (khí trong magma): Những magma giàu chất bốc sẽ xuất hiện các lực đưa magma xuyên vào đá vây quanh dễ dàng hơn magma nghèo chất bốc.
  • Yếu tố ngoại sinh bao gồm: Hoạt động kiến tạo: Các hoạt động kiến tạo mức độ khác nhau sẽ tạo các đường dẫn khác nhau, từ đó sẽ dẫn đến hình dạng khác nhau của các thể đá magma. Đặc điểm địa hình và đá vây quanh.

Dạng nằm của các đá magma xâm nhập

  • Thể nền (batolit): bất chỉnh hợp với đá vây quanh, phình ra ở phía dưới và không có đáy. Kích thước thường rất lớn, tới hàng ngàn km2.
  • Thể cán: giống thể nền, chỉ khác kích thước nhỏ hơn, diện tích lộ không quá 100-200km2.
  • Thể vỉa: do magma có áp lực xuyên vào khoảng giữa hai lớp đá, nó có hai mặt tiếp xúc song song, đường đưa magma lên là những khe nứt, đứt gãy. Kích thước rất khác nhau, bề dày từ vài chục mét đến hàng trăm mét. Chỉnh hợp với đá vây quanh
  • Thể nấm: giống hình cái nấm hoặc bánh dày, phân biệt với thể vỉa do kích thước tương đối (chiều dày:chiều rộng>1:8), ngoài rìa mỏng dần so với phần trung tâm. Thường là các thể xâm nhập nông, nằm chỉnh hợp với đá vây quanh.
  • Thể thấu kính, thể chậu: thường nằm kẹp giữa các nếp uốn, do khối nhỏ magma xuyên vào vỏ Trái Đất rồi bị cuốn theo chuyển động dẻo, chúng thường không có rễ, chỉnh hợp với đá vây quanh.
  • Thể tường: nằm dốc đứng bất chỉnh hợp với đá vây quanh, kích thước từ vài chục mét đến hàng trăm km.

Dạng nằm của đá magma phun trào

  • Dạng dòng dung nham.
  • Dạng lớp phủ.
  • Dạng vòm, kim, tháp.

Đá trầm tích

nhỏ|phải|Đá [[thạch anh.]] Phần lớn lớp vỏ Trái Đất được cấu tạo bởi các đá magma và đá biến chất, ước tính chúng chiếm khoảng 90-95% trong 16 km tính từ bề mặt Trái Đất. Dù vậy, hầu hết bề mặt trái Đất được bao phủ bởi trầm tích. Về cơ bản tất cả đáy biển được phủ bởi trầm tích, Hầu hết các hóa thạch được phát hiện trong trầm tích, đá trầm tích và đá biến chất từ đá trầm tích, chúng là các dấu hiện quan trọng cho việc tìm hiểu các điều kiện môi trường mà trước đây từng tồn tại trên bề mặt Trái Đất. Các nguồn năng lượng như dầu mỏ, khí thiên nhiên, than đá và urani được chiết tách từ đá trầm tích.

Loại phổ biến nhất của các loại đá kết tủa hóa học là evaporit, được hình thành khi nước giàu muối hòa tan bị bốc hơi. Khi bay hơi nồng độ muối tăng cho đến khi nước được bão hòa và muối bắt đầu kết tủa. Một lượng lớn các đá evaporit hình thành khi biển bốc hơi trong khu vực Địa Trung Hải trong suốt thế Miocene và dọc theo bờ Biển Chết ngày nay. Các loại khoáng evaporit gồm thạch cao (CaSO4·2H2O), thạch cao khan (CaSO4) và halit (NaCl).

Đá trầm tích hữu cơ

Trầm tích hữu cơ tạo thành do sự tích tụ xác động vật, thực vật như đá vôi, đá vôi vỏ sò, đá phấn, đá diatomit, trepen… Trầm tích hữu cơ thường bị các vi sinh vật tiêu thụ oxy phá hủy. Tuy nhiên, nếu lượng oxy không đủ, vi sinh vật không thể phá hủy toàn bộ nguyên liệu, và nó có thể tạo thành một tảng đá hữu cơ. Các loại đá này có thể được hình thành cả trên các lục địa và đại dương. Ví dụ về một môi trường lục địa là than và biển là đá phiến dầu. Thành phần của hợp chất carbon và carbon có thể lên tới 25% và hàm lượng lưu huỳnh có thể lên tới 12%. Lý thuyết về tướng biến chất được nhà địa chất Phần Lan, Pentti Eskola đưa ra năm 1915, lý thuyết này là sự phát triển tiếp theo của công trình phiến biến chất được Viktor M. Goldschmidts đưa ra từ thập niên 1900.

Trong trường hợp nhiệt độ là yếu tố chính thì biến chất xảy ra theo đường màu xanh lá cây (hình bên) tạo ra đá biến chất tướng amphibolit và granulit. Trong trường hợp va mảng mà yếu tố chi phối là áp lực thì tạo nên tướng đá phiến lam và eclogit.

Môi trường biến chất

Biến chất khu vực xảy ra trong khu vực rộng lớn, chẳng hạn như các dãy núi. Khi các mảng kiến tạo hội tụ và các tầng trên của các lớp gấp lại và ép xuống làm những lớp đá hình thành trước bị lún sâu hơn, bên trên là những lớp trầm tích mới tích tụ dần gây nên áp lực và nhiệt độ gia tăng. Điều này dẫn đến cả hai quá trình tái kết tinh và thay đổi cấu trúc. Loại đá này có tính phân phiến (lớp mỏng) nên tính chất cơ học kém hơn đá magma. Ví dụ Đá gơnai (do đá granit tái kết tinh), phiến sét (do sự biến chất của đất sét dươi áp lực cao).

Biến chất tiếp xúc xảy ra khi đá nằm bên cạnh một khối magma bị ảnh hưởng bởi nhiệt từ magma. Kích thước của magma ảnh hưởng đến khoảng cách mà khối đá có trước bị biến chất. Trong một thể magma lớn, giống như một thể batolit lớn có thể đến vài km, thì lớp biến chất tiếp xúc có thể chỉ vài cm. Biến chất tiếp xúc xảy ra ở tất cả các độ sâu trong lớp vỏ, nhưng là rõ ràng nhất khi nó xảy ra gần bề mặt, bởi vì áp lực thấp, và độ lệch nhiệt độ quá lớn. Vì biến chất tiếp xúc không liên quan đến bất kỳ áp lực nào tác động lên nên các tinh thể không định hướng theo bất kỳ hướng nào.

Biến chất va chạm xảy ra khi thiên thạch va chạm bề mặt đất, do động năng rất lớn của thiên thạch được chuyển thành nhiệt và áp suất trong đá bị va chạm. Trong một số trường hợp, những tác động này tạo thành các coesit, một loại silica mật độ lớn, và thậm chí hình thành các hạt kim cương nhỏ. Sự hiện diện của các khoáng chất như trên cho thấy rằng ít nhất là thiên thạch đã tạo ra áp lực và nhiệt độ gây biến đổi phần trên cùng, nơi mà các khoáng vật thường được hình thành.

Cấu tạo

Cấu tạo đặc trưng của đá biến chất là phân phiến, đó là sự sắp xếp có định hướng của các khoáng vật dưới tác động của áp suất chính trong quá trình hình thành đá biến chất, ví dụ như đá gneiss, đá phiến lam, đá phiến lục. Phương áp lực sẽ vuông góc với mặt phẳng chứa các phiến. Dựa vào đặc điểm này, người ta có thể tái hiện môi trường kiến tạo vào lúc mà đá đó được hình thành. Tuy nhiên, không phải đá biến chất nào cũng có cấu tạo phân phiến. Các đá không có cấu tạo phân phiến như quartzit, đá hoa, đá sừng.

Thiên thạch

nhỏ|phải|[[C chondrit]] Thiên thạch là một loại đá có nguồn gốc trong không gian chứ không phải hình thành trên Trái Đất. Một số thiên thạch có thể là dấu tích còn sót lại từ sự hình thành hệ Mặt Trời cách nay hơn 4,6 tỷ năm. Thiên thạch thường bao gồm khoáng vật silicat (95%) và rất nhiều hợp kim sắt - nickel, hoặc sự kết hợp cả hai (5%).

Thiên thạch sắt bao gồm hợp kim sắt-nickel và chiếm khoảng 3,8% của tất cả thiên thạch. Chúng được cho là bao gồm các vật liệu từ lõi của các tiểu hành tinh bị gián đoạn. Thiên thạch sắt rơi vào ba nhóm tùy thuộc vào thành phần nickel/sắt và cấu trúc tinh thể; hexahedriter chứa 4-6% nickel, octahedriter chứa 6-12% nickel và ataxiter chứa nhiều hơn 12% nickel. Cấu trúc tinh thể của hexahedriter giống như một hình chữ nhật, octahedriter có mô hình lục giác và ataxiter không có cấu trúc tinh thể khác nhau.

Thiên thạch sắt đá bao gồm một hỗn hợp xấp xỉ bằng hợp kim sắt-nickel và khoáng chất silicat và tương ứng với khoảng 0,5% của tất cả các thiên thạch được biết đến. Chúng được cho là thành tạo từ vật liệu từ khu vực tiếp giáp giữa lõi thiên thể và lớp vỏ của nó.

Sử dụng

nhỏ|phải|Mỏ [[đá Portland trên đảo Portland, Anh. Đây là loại đá được dùng nhiều trong xây dựng trên đảo Anh như Nhà thờ Thánh Paul và Cung điện Buckingham.]]

Đá là một loại vật liệu gắn liền với lịch sử phát triển của loài người. Thời tiền sử, bắt đầu thời đại đồ đá con người đã biết dùng đá để làm vũ khí tự vệ, săn bắn, công cụ sản xuất. Những công trình bằng đá nổi tiếng như kim tự tháp, Angkor Wat, thành Babylon, El-Djem (Tuynizi), Colisée (Ý), Bourgogne (Pháp), Épidayre (Hy Lạp), vv.

Làm vật liệu xây dựng

Là sản phẩm sản xuất từ đá thiên nhiên bằng phương pháp gia công cơ học hoặc do phong hóa tự nhiên như: đá hộc, đá tấm (phiến), đá dăm, cát...

Từ đá thiên nhiên có thể chế tạo một số chất kết dính như xi măng (đá vôi+ đất sét+ nung + clinker, nghiền +PG XM), vôi (nung đá vôi CaCO3), thạch cao xd CaSO4.0.5H2O (nung đá thạch cao CaSO4.2H2O) …

Vật liệu đá xây dựng được sử dụng rộng rãi nhờ có những ưu điểm sau:

  • Cường độ chịu nén cao, Rn cao.
  • Bền vững trong môi trường sử dụng.
  • Dùng để trang trí như đá hoa, đá granit (hay đá hoa cương), đá gabro, đá biến chất tái kết tinh và một số loại đá phiến.
  • Giá thành thấp, tận dụng được nguồn nguyên liệu địa phương.
  • Bên cạnh đó còn có một số nhược điểm: khối lượng thể tích lớn, quá trình gia công phức tạp, vận chuyển và thi công khó khăn.

Tính chất các đá làm vật liệu xây dựng bao gồm trọng lượng thể tích và cường độ ở trạng thái khô, như các loại nhẹ (trọng lượng < 1800 kg/m3 và có mác tương ứng 5, 10, 15, 75, 100, 150 kG/cm2) thường dùng xây tường cho nhà cần cách nhiệt; loại nặng (> 1800 kg/m3 và có mác tương ứng 100, 150, 200, 400, 600, 800, 1000 kG/cm2) dùng trong các công trình chịu lực, công trình thủy công để xây móng, tường chắn, lớp phủ bờ kè, ốp lát…

Theo hệ số mềm, các đá được chia thành 4 cấp:? 0.6; 0.6 - 0.75; 0.75 - 0.9;và? 0.9. Theo yêu cầu sử dụng và mức độ gia công Đá hộc: gia công theo phương pháp nổ mìn. Dùng để xây móng nhà, tường chắn, trụ cầu, Đá đẽo thô, vừa, kỹ tùy theo yêu cầu sử dụng của công trình. Đá kiểu: được chọn lọc kỹ, chất lượng cao, dùng để trang trí cho các công trình. Đá phiến: để ốp lát, trang trí. ** Đá dăm: làm cốt liệu trộn bê tông.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Trong hành trình 15 năm hoạt động, Phòng khám Chuyên khoa Da liễu Maia&Maia đã khám và điều trị hàng chục nghìn ca bệnh lý về da và các bệnh da thẩm mỹ giúp hàng
**Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới 2023** () là giải đấu lần thứ 23 của Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới, giải vô địch bóng đá trẻ nam quốc tế được
**_Rồng đá, hay là Mũi uốn ván_** là một tập truyện ngắn của hai tác giả Vũ Ngọc Tiến và Lê Mai được phát hành vào tháng 6 năm 2008 tại Đà Nẵng. ## Lịch
phải|nhỏ| Ví dụ về sự đa dạng sinh học đa bào của Trái Đất. **Đa dạng sinh học toàn cầu** là thước đo đa dạng sinh học trên hành tinh Trái Đất và được định
Giải vô địch bóng đá châu Âu là một giải đấu bóng đá ra đời vào năm 1960. Giải đấu này quy tụ các đội tuyển quốc gia nam là thành viên thuộc Liên đoàn
**Câu lạc bộ bóng đá nữ Thái Nguyên T&T** là một câu lạc bộ bóng đá nữ Việt Nam, có trụ sở tại Thái Nguyên, Việt Nam. Đội bóng đang thi đấu tại Giải bóng
**Vòng loại Cúp bóng đá U-23 châu Á 2022** là một giải đấu bóng đá quốc tế được Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) tổ chức nhằm xác định các đội tuyển tham dự
**Quản lý loài hoang dã** (_Wildlife management_) hay **quản lý động vật hoang dã** là quá trình quản lý ảnh hưởng đến sự tương tác giữa động vật hoang dã, môi trường sống của chúng
**Trường Trung học cơ sở – Trung học phổ thông Nguyễn Khuyến** là một trường liên cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông tại Đà Nẵng. Đây từng là trường trung học
**Chữ khắc và Nghệ thuật đá Bir Hima** () là một địa điểm nghệ thuật đá nằm ở tỉnh Najran, phía tây nam Ả Rập Xê Út, cách về phía bắc thành phố Najran. Đây
nhỏ|Một mẫu vật đá sừng thành dải, do biến chất tiếp xúc của [[sa thạch và đá phiến sét với granit xâm nhập sinh ra.]] **Đá sừng** là tên gọi chung để chỉ một tập
**Giải bóng đá Vô địch Quốc gia 2022,** tên gọi chính thức là **Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Night Wolf 2022** () vì lý do tài trợ, là mùa giải chuyên nghiệp thứ
**Cúp bóng đá U-20 châu Á 2023** là lần thứ 41 của Cúp bóng đá U-20 châu Á (bao gồm các lần trước của Giải vô địch bóng đá trẻ châu Á và Giải vô
**Giải bóng đá Vô địch U-19 Quốc gia 2021** là mùa giải thứ 16 của giải U-19 Quốc gia do Liên đoàn bóng đá Việt Nam tổ chức. Giải đấu này diễn ra theo hai
**Rodrigo da Silva Dias** (sinh ngày 26 tháng 1 năm 1994) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Brasil chơi ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ SHB Đà Nẵng tại
**Giải bóng đá nữ Vô địch Quốc gia 2020** (tên gọi chính thức: **Giải bóng đá nữ Vô địch Quốc gia - Cúp Thái Sơn Bắc 2020**) là giải đấu bóng đá lần thứ 23
**Giải bóng đá Vô địch Quốc gia 2021**, tên chính thức là **Giải bóng đá Vô địch Quốc gia LS 2021** () vì lý do tài trợ, là mùa giải chuyên nghiệp thứ 21 và
nhỏ|334x334px|Băng ghế dự bị của đội tuyển quốc gia Argentina. Trong bóng đá, **cầu thủ dự** **bị** là một cầu thủ được tung vào sân trong trận đấu để thay thế một cầu thủ hiện
**Trung tâm Đa dạng sinh học ASEAN** (ACB) là một trung tâm xuất sắc liên chính phủ với vai trò thúc đẩy hợp tác và phối hợp giữa các thành viên ASEAN, các chính phủ
**Vòng loại châu Á Giải vô địch bóng đá trong nhà thế giới 2021** là một cuộc thi đấu futsal nam bất thường nhằm xác định hai trong số năm đội tuyển quốc gia là
**Giải vô địch bóng đá châu Âu 2020** là một giải đấu bóng đá quốc tế được tổ chức tại 11 thành phố ở châu Âu từ ngày 11 tháng 6 đến ngày 11 tháng
**Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng** là cơ quan quyền lực Nhà nước tại thành phố Đà Nẵng, được tổ chức và có chức năng theo quy định của _Luật tổ chức Hội
nhỏ|phải|Một con cự đà nuôi **Cự đà nuôi** (_Green iguana in captivity_) là các con _kỳ nhông xanh_ (Iguana iguana) được nuôi nhốt làm kiểng, chúng đã trở nên là đối tượng phổ biến trong
**Nicolás González Iglesias** (sinh ngày 3 tháng 1 năm 2002), hay còn được biết đến với tên gọi **Nico**, là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Tây Ban Nha hiện đang thi đấu
Các trận đấu vòng loại **Bảng 3** của **khu vực châu Âu (UEFA)** trong **vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 1994** diễn ra từ tháng 4 năm 1992 đến tháng 11 năm
**Nuno Alexandre Tavares Mendes** (; sinh ngày 19 tháng 6 năm 2002) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Bồ Đào Nha hiện đang thi đấu ở vị trí hậu vệ trái cho
**Giải vô địch bóng đá trong nhà thế giới 2024** () là giải vô địch bóng đá trong nhà thế giới lần thứ 10, giải vô địch bóng đá trong nhà quốc tế được tổ
**Cúp bóng đá U-23 châu Á 2022** () là lần tổ chức thứ năm của Cúp bóng đá U-23 châu Á, giải bóng đá trẻ do Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) tổ chức
Trận **chung kết Cúp bóng đá các quốc gia châu Âu 1960** là một trận đấu bóng đá được diễn ra vào ngày 10 tháng 7 năm 1960 trên Sân vận động Công viên các
**Cúp bóng đá U-17 châu Á 2023** là mùa giải thứ 20 của Cúp bóng đá U-17 châu Á (bao gồm cả các phiên bản trước của Giải vô địch bóng đá U-16 châu Á
**Công an thành phố Đà Nẵng** là cơ quan Công an cấp thành phố trực thuộc Trung ương ở Việt Nam, thuộc hệ thống tổ chức của lực lượng Công an nhân dân Việt Nam
nhỏ|300x300px|[[Vượn cáo đuôi vòng (_Lemur catta_), một trong các loài vượn cáo quen thuộc nhất trong rất nhiều loài vượn cáo của Madagascar.]] Thành phần hệ động vật hoang dã của Madagascar đã cho ta
**Vụ kiện hậu quả chất độc da cam trong Chiến tranh Việt Nam** là vụ kiện của Nhóm bảo vệ quyền lợi của nạn nhân Chất độc da cam/Dioxin đối với 37 công ty sản
**Tản Đà** (chữ Hán: 傘沱, 19 tháng 5 năm 1889 - 7 tháng 6 năm 1939) tên thật **Nguyễn Khắc Hiếu** (阮克孝), là một nhà thơ, nhà văn và nhà viết kịch nổi tiếng của
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Thái Lan** (, , ) là đội tuyển bóng đá đại diện cho Thái Lan do Hiệp hội bóng đá Thái Lan (FAT) quản lý. Ở cấp độ châu
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam** là đội tuyển bóng đá quốc gia đại diện cho Việt Nam thi đấu tại các giải đấu bóng đá quốc tế do Liên đoàn bóng đá
**Giải bóng đá vô địch thế giới 1930** là giải bóng đá vô địch thế giới đầu tiên (tên chính thức là **1930 Football World Cup - Uruguay / _1er Campeonato Mundial de Football**_) và
thumb|Chiếc [[cúp FIFA World Cup.]] **Giải vô địch bóng đá thế giới**, hay còn gọi là **Cúp bóng đá thế giới**, tên chính thức là **FIFA World Cup**, thường được gọi đơn giản là **World
**Cúp bóng đá thế giới các câu lạc bộ** (), trước đây được gọi là **FIFA Club World Championship** (_Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ_), là một giải đấu bóng
**Giải vô địch bóng đá thế giới 2006** (hay **Cúp bóng đá thế giới 2006**, _,_ ) là lần tổ chức thứ 18 của giải vô địch bóng đá thế giới, diễn ra tại 12
nhỏ|280x280px|Một mỏm đá dọc theo một [[Suối|con suối trên núi gần Orosí, Costa Rica.]] **Đá** hay **nham thạch** là tổ hợp có quy luật của các loại khoáng vật, có thể là một thể địa
:_Bài này nói về đá lửa mà loài người đã dùng trong quá khứ để tạo lửa. Các nghĩa khác xem bài Đá lửa (định hướng)_. nhỏ|Cục đá lửa trong lớp đá vôi [[Onondaga (địa
**Chất độc da cam** (viết tắt: **CĐDC**, tiếng Anh: _Agent Orange_—**Tác nhân da cam**) là một loại hóa chất diệt cỏ và làm rụng lá cây được quân đội Hoa Kỳ sử dụng tại Việt
**Bóng đá tại Việt Nam** do Liên đoàn bóng đá Việt Nam (VFF) điều hành. Liên đoàn quản lý các đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam bao gồm các đội tuyển nam và
**Giải vô địch bóng đá thế giới 1950** (tên chính thức là **1950 Football World Cup - Brazil** hay **IV Campeonato Mundial de Futebol** trong tiếng Bồ Đào Nha) là giải vô địch bóng đá
**Đá vôi** là loại một loại đá trầm tích, về thành phần hóa học chủ yếu là khoáng vật calcit và aragonit (các dạng kết tinh khác nhau của calci cacbonat CaCO3). Đá vôi ít
**Đà Lạt** là thành phố tỉnh lỵ cũ trực thuộc tỉnh Lâm Đồng nằm trên cao nguyên Lâm Viên, thuộc vùng Tây Nguyên, Việt Nam. Từ xa xưa, vùng đất này vốn là địa bàn
**Giải bóng đá Vô địch Quốc gia** (tiếng Anh: **V.League 1**, hiện tại còn được gọi là **LPBank V.League 1** vì lý do tài trợ) là giải đấu bóng đá chuyên nghiệp cấp câu lạc
**Bóng đá** (hay còn gọi là **túc cầu**, **đá bóng**, **đá banh**; tiếng Anh-Anh: _association football_ hoặc ngắn gọn là _football_, tiếng Anh-Mỹ: _soccer_) là một môn thể thao đồng đội được chơi với quả
**Da** là lớp mô bên ngoài, thường mềm và đàn hồi bao phủ cơ thể của động vật có xương sống. Da có ba chức năng chính: bảo vệ, điều tiết và cảm giác. Các