✨Cừu Romanov

Cừu Romanov

nhỏ|phải|Cừu Romanov Cừu Romanov là một giống cừu nhà có nguồn gốc từ các khu vực Thượng Volga ở Nga. Những con cừu nhà có tên Romanov từ thị trấn cùng tên. Trong thế kỷ 18, những con cừu đầu tiên đã được ghi nhận. Ngay sau khi được công nhận, chúng đã được nhập khẩu vào Đức và sau đó vào nước Pháp. Trong năm 1980, 14 con cừu cái và 4 đực được đưa ra bởi chính phủ Canada và đã được cách ly cho 5 năm. Sau khi thử nghiệm, một số giống cừu Romanov đã được đưa vào Hoa Kỳ. Giống cừu này được nuôi chủ yếu để lấy thịt cừu. Chúng là giống nền để lai tạo nên giống cừu Gotland.

Đặc điểm

nhỏ|phải|Cừu Romanov Cừu Romanov là một trong những giống cừu đuôi ngắn Bắc Âu. Chúng là giống thuần chủng với bộ lông thuần nhất một màu đen khi chúng được sinh ra, nhưng khi chúng lớn lên màu nhanh chóng thay đổi sang màu xám. Trọng lượng trung bình của một con cừu đực Romanov là 55–80 kg và trọng lượng trung bình của một con cừu cái là 40–50 kg. Từ 3-4 tháng tuổi, cừu Romanov thành thục sinh dục và sẽ bắt đầu nhân giống bất kỳ tháng nào trong năm. Sự khác biệt về sinh sản tồn tại giữa các giống và kiểu gen ở cừu. Cừu Romanov thường có tỷ lệ đẻ rất cao so với cừu Pramenka (250% so với 110%).

Trán chúng phẳng, xương mũi lồi ra, chúng có hố nước mắt, mõm của chúng mỏng, môi hoạt động, răng cửa sắc, nhờ đó chúng có thể gặm được cỏ mọc thấp và bứt được những lá thân cây mềm mại, hợp khẩu vị trên cao để ăn. Chúng có thói quen đi kiếm ăn theo bầy đàn, tạo thành nhóm lớn trên đồng cỏ. Trong da chúng có nhiều tuyến mồ hôi và tuyến mỡ hơn dê. Bởi thế chúng bài tiết mồ hôi nhiều hơn và các cơ quan hô hấp tham gia tích cực hơn vào quá trình điều tiết nhiệt.

Lai tạo

Lai kết hợp giữa chúng với cừu địa phương cho kết quả rất tốt. Gần đây năm giống cừu đực cừu Dorset, cừu Finnsheep, cừu Romanov, cừu Texel và cừu Montadale và hai giống cừu cái cừu Composite III và Northwestern Whiteface đã được đánh giá ở cả quần thể thuần và lai, sản xuất thịt cừu thương mại có thể được cải thiện đáng kể nếu sử dụng con cái lai cừu Romanov là con mẹ trong hệ thống lai luân chuyển. Con lai cừu Charolais x cừu Awassi và cừu Romanov x cừu Awassi sinh trưởng tốt hơn con thuần giống cừu Awassi, đây có thể là hiệu ứng của ưu thế lai và khác biệt về địa lý.

Cừu giống Romanov mặc dù sinh sản rất tốt 3 đến 5 cừu con một lần đẻ nhưng cừu con lại sinh trưởng chậm, thịt xẻ thấp cho nên không còn đáp ứng được nhu cầu của người nuôi và thị trường. Để đáp ứng nhu cầu về thịt cừu, lai cừu Romanov với cừu đực giống thịt cừu Wiltshire Horn đã được tiến hành tại Lithuania từ năm 2009. Kết quả cho thấy cừu Romanov lai với cừu đực Wiltshire Horn đã có ảnh hưởng tích cực đến khối lượng (cừu lai nặng hơn 1,04-1,25 kg), tốc độ sinh trưởng tăng (tăng thêm 36,55-50,85 g/ngày) và tỷ lệ thịt xẻ ở con lai tăng, mặc dù số cừu con sinh ra bị giảm đi 26,50%.

Để tăng khả năng sinh sản của cừu, bằng phương pháp là cho lai các giống địa phương với các giống cừu ngoại sinh sản tốt, cho thịt nhiều như các giống cừu: cừu Romanov, cừu Finish, cừu Charollais, cừu Suffolk, cừu Texel. Khối lượng giết thịt khác nhau thì tỷ lệ thịt xẻ khác nhau, tỷ lệ thịt xẻ phụ thuộc vào khối lượng giết mổ và có thể thay đổi từ 37 đến 45%, cừu Chokla có tỷ lệ thịt xẻ tương tự như báo cáo trên cừu Romanov, giống khác nhau thì có tỷ lệ thịt xẻ khác nhau, tuy nhiên có thể nâng cao tỷ lệ thịt xẻ bằng nuôi dưỡng và quản lý.

Chăn nuôi

nhỏ|phải|Những con cừu đực Romanov Chúng có tính bầy đàn cao nên dễ quản lý, chúng thường đi kiếm ăn theo đàn nên việc chăm sóc và quản lý rất thuận lợi. Chúng cũng là loài dễ nuôi, mau lớn, ít tốn công chăm sóc. So với chăn nuôi bò thì chúng là vật nuôi dễ tính hơn, thức ăn của chúng rất đa dạng, thức ăn của chúng là những loại không cạnh tranh với lương thực của người. Chúng là động vật có vú ăn rất nhiều cỏ.

Hầu hết chúng gặm cỏ và ăn các loại cỏ khô khác, tránh các phần thực vật có gỗ nhiều. Chúng có chế độ hoạt động ban ngày, ăn từ sáng đến tối, thỉnh thoảng dừng lại để nghỉ ngơi và nhai lại. Đồng cỏ lý tưởng cho chúng như cỏ và cây họ Đậu. Khác với thức ăn gia súc, thức ăn chính của chúng trong mùa đông là cỏ khô.

Chúng là loài ăn tạp, có thể ăn được nhiều loại thức ăn bao gồm thức ăn thô xanh các loại như: rơm cỏ tươi, khô, rau, củ quả bầu bí các loại, phế phụ phẩm công nông nghiệp và các loại thức ăn tinh bổ sung như cám gạo ngũ cốc. Mỗi ngày chúng có thể ăn được một lượng thức ăn 15-20% thể trọng. Chúng cần một lượng thức ăn tính theo vật chất khô bằng 3,5% thể trọng. Với nhu cầu 65% vật chất khô từ thức ăn thô xanh (0,91 kg) và 35% vật chất khô từ thức ăn tinh (0,49 kg). Khi cho chúng ăn loại thức ăn thô xanh chứa 20% vật chất khô và thức ăn tinh chứa 90% vật chất khô.

Nguồn nước uống là nhu cầu cơ bản của chúng. Lượng nước cần cho chúng biến động theo mùa và loại và chất lượng thực phẩm mà chúng tiêu thụ. Khi chúng ăn nhiều trong các tháng đầu tiên và có mưa (kể cả sương, khi chúng ăn vào sáng sớm), chúng cần ít nước hơn. Khi chúng ăn nhiều cỏ khô thì chúng cần nhiều nước. Chúng cũng cần uống nước sạch, và có thể không uống nếu nước có tảo hoặc chất cặn. Trong một số khẩu phần ăn của chúng cũng bao gồm các khoáng chất, hoặc trộn với lượng ít.

Chăm sóc

Sau khi cho phối giống 16-17 ngày mà không có biểu hiện động dục lại là có thể cừu đã có chửa, Căn cứ vào ngày phối giống để chuẩn bị đỡ đẻ cho cừu (thời gian mang thai của cừu 146-150 ngày) nhằm hạn chế cừu sơ sinh bị chết; Có thể bồi dưỡng thêm thức ăn tinh và rau cỏ non cho cừu có chửa nhưng tuyệt đối tránh thức ăn hôi mốc; Khi có dấu hiệu sắp đẻ (bầu vú căng, xuống sữa, sụt mông, âm hộ sưng to, dịch nhờn chảy ra, cào bới sàn...) nên nhốt ở chuồng riêng có lót ổ rơm và chăn dắt gần, tránh đồi dốc.

Thông thường cừu mẹ nằm đẻ nhưng cũng có trường hợp đứng đẻ, tốt nhất nên chuẩn bị đỡ đẻ cho cừu; Sau khi đẻ cừu mẹ tự liếm cho con. Tuy nhiên, vẫn phải lấy khăn sạch lau khô cho cừu con, nhất là ở miệng và mũi cho cừu con dễ thở. Lấy chỉ sạch buộc cuống rốn (cách rốn 4–5 cm), cắt cuống rốn cho cừu con và dùng cồn Iod để sát trùng; Giúp cừu con sơ sinh đứng dậy bú sữa đầu càng sớm càng tốt (vì trong sữa đầu có nhiều kháng thể tự nhiên); Đẻ xong cho cừu mẹ uống nước thoải mái (có pha đường 1% hoặc muối 0.5%).

Cừu con trong 10 ngày đầu sau khi đẻ cừu con bú sữa mẹ tự do; Từ 11-21 ngày tuổi cừu con bú mẹ 3 lần/ngày, nên tập cho cừu con ăn thêm thức ăn tinh và cỏ non, ngon; 80-90 ngày tuổi có thể cai sữa. Giai đoạn này phải có cỏ tươi non, ngon cho cừu con để kích thích bộ máy tiêu hóa phát triển (đặc biệt là dạ cỏ) và bù đắp lượng dinh dưỡng thiếu hụt do sữa mẹ cung cấp không đủ; Cừu sinh trưởng và phát triển nhanh, mạnh ở giai đoạn này.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|phải|Cừu Romanov **Cừu Romanov** là một giống cừu nhà có nguồn gốc từ các khu vực Thượng Volga ở Nga. Những con cừu nhà có tên Romanov từ thị trấn cùng tên. Trong thế kỷ
nhỏ|phải|[[Cừu Texel là một giống cừu lai cao sản]] Trong công tác chăn nuôi cừu, **cừu lai** (tiếng Anh: mule) là những con cừu được lai chéo giữa một giống cừu ở vùng đất thấp
nhỏ|phải|Cừu Awassi **Cừu Awassi** (tiếng Ả Rập: عواسي) là một giống cừu địa phương ở Tây Nam Á có nguồn gốc ở các vùng sa mạc Ả Rập-Syria. Tên địa phương khác cũng có thể
nhỏ|phải|Inra401 **Cừu Romane** hay còn gọi là **cừu INRA 401** là một giống cừu lai cao sản có nguồn gốc từ Pháp, đúng hơn là một chủng cừu trong đó nổi lên trong những năm
**Cừu đuôi ngắn Bắc Âu** (_Northern European short-tailed sheep_) là một nhóm các giống cừu và các giống landraces phân bố từ quần đảo Anh (bao gồm cả eo biển Anh), bán đảo Scandinavia, Greenland
**Giống cừu** là tập hợp các giống vật nuôi có nguồn gốc từ loài cừu nhà (Ovis aries). Đây là một trong những giống vật nuôi đa dạng được con người lai tạo, chọn giống
nhỏ|phải|Một con cừu trắng Phần Lan nhỏ|phải|Một con cừu trắng Phần Lan nhỏ|phải **Cừu Phần Lan** là một giống cừu nhà có nguồn gốc ở Phần Lan, chúng đặc trưng bởi một tỷ lệ sinh
nhỏ|phải|Cừu Texel trắng **Cừu Texel** là một giống cừu nhà có nguồn gốc từ đảo Texel ở Hà Lan. Nó bây giờ là một giống cừu lấy thịt nạc phổ biến ở Mỹ, Úc, New
nhỏ|phải|Một con cừu Oxford Down **Cừu Oxford Down** hay còn gọi là **cừu Oxford** là một giống cừu có nguồn gốc từ nước Anh của loài cừu nhà được lai tạo và phát triển vào
nhỏ|phải nhỏ|phải|Một con cừu **Cừu Suffolk** là một giống cừu mặt đen có nguồn gốc từ Anh và được nuôi nhiều ở Mỹ để lấy thịt cừu. Chúng có thân hình khá lớn, bộ xương
nhỏ|phải|Cừu Charollais **Cừu Charollais** là một giống cừu có nguồn gốc từ Pháp của khu vực Charolais. Chúng xuất hiện từ việc lai giữa cừu địa phương với cừu Leicester Anh từ Vương quốc Anh.
nhỏ|phải|Cừu Jacob **Cừu Jacob** là một giống cừu có nguồn gốc từ Anh. Đây là một giống cừu hiếm có, có kích thước nhỏ và thuộc nhóm cừu nhiều sừng, chúng cũng nổi bật với
**Cừu Canada Arcott** là một giống cừu bản địa của cừu nhà có nguồn gốc từ Canada. Đây là một trong những giống cừu của quốc gia này được hình thành qua con đường lai
nhỏ|phải|Một con cừu Pramenka **Cừu Pramenka** (tiếng Bankan: _Lička pramenka_) là một giống cừu bản địa có nguồn gốc từ Bosnia-Herzegovina (Nam Tư cũ). Ngoài Bosnia và Herzegovina giống cừu này còn có nguồn gốc
**Cừu Montadale** là tên của một giống cừu nhà được phát triển vào những năm 1930 bởi E. H. Mattingly, một người mua thịt cừu thương phẩm miền Trung phía Tây Hoa Kỳ, người đã
**Cừu Polypay** là một giống cừu có nguồn gốc từ Hoa Kỳ, đây là một giống cừu có lông trắng, kích cỡ trung bình, giống cừu này được phát triển trong những năm 1960 tại
nhỏ|phải|Cừu Hampshire **Cừu Hampshire** hay **Hampshire Down** là một giống cừu có nguồn gốc từ nước Anh, ra đời khoảng 1829 từ một nhánh riêng rẽ của giống cừu Southdown với giống cừu Hampshire cổ
nhỏ|phải|Cừu Gotland **Cừu Gotland** (tiếng Thụy Điển: _Pälsfår_) là một giống cừu nhà có nguồn gốc từ đảo Gotland của Thụy Điển. Thuộc thuộc nhóm giống cừu Bắc Âu đuôi ngắn. Cừu Gotland được cho
**Gia đình hoàng tộc Nga** Romanov bao gồm Sa hoàng Nikolai II, hoàng hậu Aleksandra Feodorovna và 5 người con của họ là Olga, Tatyana, Mariya, Anastasiya, và Aleksey) và 4 người hầu theo phục
**_Nhánh Red Alert_** là một phân nhánh trò chơi chiến lược thời gian thực thuộc _thương hiệu Command & Conquer_ của Westwood Studios và Electronic Arts. Xê-ri này khá nổi tiếng vì có một số
**Alix của Hessen và Rhein** (tiếng Đức: _Alix von Hessen und bei Rhein_; tiếng Anh: _Alix of Hesse and by Rhine_; 6 tháng 6 năm 1872 – 17 tháng 7 năm 1918), còn được gọi
**Sa quốc Nga** ( hay **Nước Nga Sa hoàng**, ) hay nó có một tên gọi khác là **Sa quốc Muscovy** là giai đoạn trung ương tập quyền hóa trong lịch sử Nga, bắt đầu
**_Command & Conquer: Yuri's Revenge_** là một phiên bản mở rộng của _Command & Conquer: Red Alert 2_, phát triển bởi hãng Westwood Studios. Game được phát hành ở Bắc Mỹ vào ngày 10 tháng
**Tatyana Nikolaevna của Nga** (Tatyana Nikolaevna Romanova) (Tiếng Nga Великая Княжна Татьяна Николаевна) (29 tháng 5 (OS) / 10 tháng 6 (NS) 1897- 17 tháng 7 năm 1918) (năm 1900 và sau đó, sinh nhật
**Mikhail Fyodorovich** (, tiếng Slav Đông cổ: _Міхаи́лъ Ѳео́доровичь_; 22 tháng 7 [12 tháng 7 theo lịch cũ] năm 1596 – 23 tháng 7 [13 tháng 7 theo lịch cũ] năm 1645), còn được gọi
**Aleksey Nikolayevich của Nga** () ( – 17 tháng 7 năm 1918) là thái tử (_tsesarevich_) cuối cùng của Đế quốc Nga. Ông là con út và là người con trai duy nhất của Hoàng
**Đế quốc Nga** () là một quốc gia tồn tại từ năm 1721 đến khi Chính phủ lâm thời lên nắm quyền sau cuộc Cách mạng Tháng Hai năm 1917. Là đế quốc lớn thứ
**Nikolai II của Nga** cũng viết là **Nicholas II** ( , phiên âm tiếng Việt là **Nicôlai II Rômanốp** hay **Ni-cô-lai II**) (19 tháng 5 năm 1868 – 17 tháng 7 năm 1918) là vị
**Anastasia Nikolaevna của Nga** (tiếng Nga: Великая Княжна Анастасия Николаевна Романова, Velikaya Knyazhna Anastasiya Nikolayevna Romanova) ( – 17 tháng 7 năm 1918) là đứa con thứ tư cũng là con gái út của Sa
**Alexander II** (; 29 tháng 4 năm 181813 tháng 3 năm 1881)) là Hoàng đế Nga, Vua của Ba Lan và Đại vương công Phần Lan từ ngày 2 tháng 3 năm 1855 cho đến khi
**Mariya Nikolayevna của Nga** (Mariya Nikolayevna Romanova; tiếng Nga: Великая Княжна Мария Николаевна, ( – 17 tháng 7 năm 1918). Vào năm 1900 và sau đó, sinh nhật của cô diễn ra vào ngày 26
**Sophie Dorothee xứ Württemberg** (tiếng Đức: _Sophie Dorothee von Württemberg_, tiếng Nga: _София Доротея Вюртембергская_; tiếng Anh: _Sophia Dorothea of_ _Württemberg_; tên đầy đủ: _Sophie Marie Dorothee Auguste Luise_; 25 tháng 10 năm 1759 –
**Dagmar của Đan Mạch** (26 tháng 11 năm 1847 – 13 tháng 10 năm 1928), sau khi lấy chồng thì sử dụng tên tiếng Nga **Mariya Feodorovna** (), là Hoàng hậu của Đế quốc Nga
**Đại vương công George Alexandrovich của Nga** (tiếng Nga: _Георгий Александрович_; 9 tháng 5 năm 1871 – 10 tháng 7 năm 1899) là thành viên của Vương tộc Romanov và là người con thứ 3
**Anna Ioannovna** (tiếng Nga: Анна Иоанновна; 7 tháng 2 [lịch cũ 28 tháng 1] năm 1693 – 28 tháng 10 [lịch cũ 17 tháng 10] năm 1740), cũng được Nga hóa là **Anna Ivanovna** và
**Maria của Hy Lạp và Đan Mạch** (tiếng Hy Lạp: _Μαρία της Ελλάδας και της Δανίας_; tiếng Nga: _Мария Гре́ческая и Да́тская_; tiếng Đan Mạch: _Maria af Grækenland og Danmark_; tiếng Đức: _Maria von Griechenland
**Yakov Mikhailovich Sverdlov** (); được biết đến dưới bút danh "Andrei", "Mikhalych", "Max", "Smirnov", "Permyakov" – 16 tháng 3 năm 1919) là một nhà lãnh đạo đảng Bolshevik và Chủ tịch Ban Chấp hành Trung
**Yekaterina I Alekseyevna** (tiếng Nga: Екатери́на I Алексе́евна; 15 tháng 4 năm 1684 – 17 tháng 5 năm 1727), hay còn gọi với tên gọi **Yekaterina I**, là Nữ hoàng đầu tiên của Đế quốc
**Aleksey Mikhailovich** ( ; ; 29 tháng 3  [19 tháng 3 theo lịch cũ] năm 1629 – ) là Sa hoàng của Nga trong những thập kỷ sôi động nhất của giữa thế kỷ 17.
**Yekaterina II Đại đế** (tiếng Nga: Екатерина II Великая; sinh ngày 2 tháng 5 năm 1729 – mất ngày 6 hoặc 17 tháng 11 năm 1796), đôi khi được viết là **Ekaterina II**, hay **Yekaterina
**Aleksandr III Aleksandrovich** ( – ) (, Aleksandr III Aleksandrovich) là vị Hoàng đế, hay Sa hoàng áp chót của đế quốc Nga từ ngày 13 tháng 3 năm 1881 tới khi qua đời năm
**Aleksandr I** (, Aleksandr Pavlovich; – ) là Sa Hoàng của đế quốc Nga từ 23 tháng 3 năm 1801 đến 1 tháng 12 năm 1825. Ông là người Nga đầu tiên trở thành Vua
**Friedrich Wilhelm Viktor Abert von Hohenzollern, Wilhelm II** của Phổ và Đức, (27 tháng 1 năm 1859 – 4 tháng 6 năm 1941) là vị Hoàng đế (_Kaiser_) cuối cùng của Đế quốc Đức, đồng
**Mikhail Sergeyevich Gorbachyov** (chính tả tiếng Anh: **Gorbachev**; phiên âm tiếng Việt: **Goóc-ba-chốp**; 2 tháng 3 năm 1931 – 30 tháng 8 năm 2022) là một chính khách người Nga, nhà lãnh đạo thứ tám
**Đại hãn quốc Mông Cổ** () là chính phủ Mông Cổ (Ngoại Mông Cổ) giữa năm 1911 và 1919, và một lần nữa từ 1921 tới 1924. Vào mùa xuân năm 1911, một số quý
**Pavel I của Nga**, còn được chép là **Paul I** (; _Pavel Petrovich_) ( – ) là Hoàng đế Nga từ năm 1796 đến năm 1801. Trong triều đại mình, Pavel đã bãi bỏ nhiều
**Nikolas I** (6 tháng 7 [lịch cũ 25 tháng 6] 1796 – 2 tháng 3 [lịch cũ 18 tháng 2] 1855) là Hoàng đế Nga, Vua của Vương quốc Lập hiến Ba Lan và Đại
**Cộng hòa Xô viết Nhân dân Khorezm** (Tiếng Uzbek: _Xorazm Xalq Sho'ro Jumhuriyati_; Tiếng Nga: _Хорезмская Народная Советская Республика, Khorezmskaya Narodnaya Sovetskaya Respublika_) là một nhà nước được thành lập trên cơ sở kế thừa
**Đại công quốc Phần Lan**, tên chính thức và cũng được gọi là **Đại Thân vương quốc Phần Lan**, là tiền thân của Phần Lan hiện đại. Nó tồn tại từ năm 1809 đến năm
**Pyotr I** (), có sách viết theo tiếng Anh là **Peter I** hay tiếng Pháp là **Pierre I** (sinh ngày: 10 tháng 6 năm 1672 tại Moskva – mất ngày: 8 tháng 2 năm 1725