✨Cuộc vây hãm Yorktown
Cuộc vây hãm Yorktown, còn được gọi là Trận Yorktown, đầu hàng tại Yorktown, Trận chiến Đức hay cuộc bao vây Little York, kết thúc vào ngày 19 tháng 10 năm 1781, tại Yorktown, Virginia, là một chiến thắng quyết định của lực lượng quân đội Lục địa Mỹ do Tướng George Washington và quân đội Pháp do Comte de Rochambeau chỉ huy trước quân đội Anh do Trung tướng Anh Charles Cornwallis chỉ huy. Đỉnh cao của chiến dịch Yorktown, cuộc bao vây là trận chiến lớn trên bộ cuối cùng của Chiến tranh Cách mạng Mỹ tại mặt trận Bắc Mỹ, Cornwallis đầu hàng, và cả ông và quân đội bị bắt, khiến chính phủ Anh phải đàm phán chấm dứt xung đột. Trận chiến đã thúc đẩy tinh thần Mỹ đang chùn bước và làm sống lại sự nhiệt tình của Pháp đối với cuộc chiến, cũng như làm suy yếu sự ủng hộ cho cuộc chiến ở Vương quốc Anh.
Năm 1780, 5.000 lính Pháp đã cập bến tại đảo Rhode để hỗ trợ đồng minh Hoa Kỳ trong các hoạt động chống lại người Anh kiểm soát thành phố New York. Sau khi công văn từ Pháp được phê duyệt, bao gồm khả năng hỗ trợ từ những hạm đội tàu Tây Ấn của Pháp do Comte de Grasse làm thống soái, Washington và Rochambeau đã yêu cầu thêm de Grasse hỗ trợ thêm để bao vây New York, hoặc trong các hoạt động quân sự nhằm mục đích chống lại quân Anh đang tung hoành ở Virginia. Theo lời khuyên của Rochambeau, de Grasse thông báo cho họ về ý tiến đội thuyền của mình tới vịnh Chesapeake, nơi Cornwallis đang chỉ huy của quân đội. Cornwallis lần đầu tiên đã khiến sĩ quan cấp cao hơn, Henry Clinton, hơi khó hiểu và cuối cùng đã được lệnh phải làm cho một cảng nước sâu để phòng thủ, ông bắt đầu thực hiện tại Yorktown, Virginia. Mọi hành động của Cornwallis ở Virginia đều bị lực lượng Lục quân Lục địa được dẫn đầu bởi Marquis de Lafayette theo dõi.
Quân đội Pháp và Mỹ hội quân ở phía bắc thành phố New York vào mùa hè năm 1781. Khi công văn của de Grasse đến nơi, quân đội hai bên bắt đầu di chuyển về phía Virginia, phao tin là đang lên kế hoạch bao vây New York để lừa người Anh và tất nhiên người Anh tin rằng sẽ có một cuộc bao vây New York xảy ra như đã lên kế hoạch. De Grasse dong buồm từ Tây Ấn và đến vịnh Chesapeake vào cuối tháng 8, mang thêm quân bổ sung và phong tỏa hải quân Yorktown. Ông đã vận chuyển 500.000 peso bạc thu thập từ các công dân của La Habana, Cuba để tài trợ các nguồn cung cấp dành cho chiến tranh và để tính lương cho quân đội Lục địa. Trong khi ở Santo Domingo, de Grasse đã gặp Francisco Saavedra de Sangronis, một đại diện của vua Carlos III của Tây Ban Nha. De Grasse đã lên kế hoạch để lại một số tàu chiến của mình tại Santo Domingo. Saavedra hứa hẹn hải quân Tây Ban Nha sẽ hỗ trợ trong việc bảo vệ đội thương thuyền của Pháp, và de Grasse có thể đưa hạm đội về phía bắc với tất cả các tàu chiến của mình. Trong những ngày đầu tháng Chín, ông đã đánh bại hạm đội Anh dẫn đầu bởi Ngài Thomas Graves, và người đang chuẩn bị đi cứu Cornwallis tại trận Chesapeake. Do chiến thắng này, de Grasse đã chặn toàn bộ đường thoát bằng biển của Cornwallis. Tại thời điểm Washington và Rochambeau đưa quân đến, và lực lượng lục quân và hải quân đã hoàn toàn bao vây Cornwallis.
Sau những chuẩn bị ban đầu, người Mỹ và người Pháp đã xây dựng những đường hào ngang đầu tiên và bắt đầu công thành. Với sự chống cự yếu đuối của Anh, Washington vào ngày 14, năm 1781 gửi hai đội hình dọc để thực hiện cuộc tấn công lớn cuối cùng vào các tuyến thủ thành ngoại vi. Quân Pháp chiếm được đồn lẻ số 9 và Mỹ chiếm đồn số 10. Với các hệ thống phòng thủ sụp đổ, liên quân đã có thể xây dựng được tuyến hào thứ hai của họ. Người Mỹ càng lúc càng siết chặt tuyến hào và tiếp tục bắn phá, tình hình của Anh bắt đầu xấu đi nhanh chóng và Cornwallis đã chấp nhận các điều kiện đầu hàng vào ngày 17. Sau hai ngày đàm phán, lễ đầu hàng đã diễn ra vào ngày 19, Cornwallis tránh mặt với lí do là bị ốm. Với việc bắt giữ hơn 7.000 binh sĩ Anh, cuộc đàm phán giữa Hoa Kỳ và Anh bắt đầu, kết quả là Hiệp ước Paris năm 1783.
Dạo đầu
Hợp tác Pháp-Mỹ
Ngày 20 tháng 12 năm 1780, Benedict Arnold khởi hành từ New York với 1.500 lính tới Portsmouth, Virginia. Trên đường đi ngang qua Richmond, Arnold đã cho quân đột kích, và đánh bại một đội dân quân vào ngày 5-7 tháng 1 năm 1781 trước khi tiếp tục đi tới Portsmouth. Đô đốc Destouches, người đã đến Newport, Rhode Island vào tháng 7 năm 1780 với một hạm đội gồm 5.500 binh sĩ, đã được Washington và tướng Pháp Rochambeau khích lệ. Sau đó Destouches đã mang hạm đội của mình về phía nam, và bắt đầu cuộc tấn công vào đội quân của Arnold.
Diễn biến cuộc vây hãm
left|thumb|upright=1.25|Siège de Yorktown bởi [[Auguste Couder, c. 1836. Rochambeau và Washington dặn dò binh lính những mệnh lệnh cuối cùng trước trận chiến.]]
Những động thái ban đầu
Vào ngày 26 tháng 9, các phương tiện chở pháo binh, công cụ vây thành và một số lính bộ binh và xung kích của Pháp từ Elkton, Maryland, đầu phía bắc của Vịnh Chesapeake, đã đến. Washington tiếp nhận một đội quân gồm 7.800 người Pháp, 3.100 dân quân và 8.000 lục quân lục địa. Người Pháp có vị trí bên trái trong khi người Mỹ có vị trí danh dự ở bên phải. Người Mỹ và người Pháp ngủ ngoài trời vào đêm ngày 28, trong khi các nhóm công binh dựng cầu bắc qua đầm lầy. Một số lính Mỹ săn lợn rừng để ăn.
Vào ngày 29 tháng 9, Washington tiếp cận Yorktown và pháo binh Anh bắt đầu nã súng vào bộ binh của Mỹ. Trong suốt cả ngày, nhiều pháo của Anh đã khai hỏa nhưng có rất ít thương vong. Các cuộc giao tranh giữa lính súng trường Mỹ và Hessia Jäger cũng diễn ra. Người Mỹ và người Pháp chiếm giữ các tuyến phòng thủ bị bỏ hoang và bắt đầu thiết lập các ụ pháo của riêng họ ở đó. Với hệ thống phòng thủ bên ngoài của Anh trong tay, các kỹ sư đồng minh bắt đầu bố trí chỗ đặt pháo binh. Liên quân nâng cấp công sự của người Anh và chiến hào của họ được đào sâu hơn. Người Anh cũng làm việc để cải thiện khả năng phòng thủ của họ. Cuộc giao tranh kéo dài hai giờ, người Pháp bị đẩy lùi, chịu nhiều thương vong. Vào ngày 1 tháng 10, đồng minh biết được từ những người đào ngũ bên Anh rằng, để tiết kiệm thực phẩm, người Anh đã giết hàng trăm con ngựa và ném xác chúng trên bãi biển.
Trong lúc liên quân đưa pháo vào vị trí, người Anh mở các đợt dội pháo đều để ngăn cản họ. Hỏa lực của Anh gia tăng vào ngày 2 và phe đồng minh bị thương vong vừa phải. Tướng Washington tiếp tục thực hiện các chuyến thăm lên mặt trận, bất chấp sự lo ngại của các sĩ quan về hỏa lực địch ngày càng tăng. Đêm 2 tháng 10, người Anh tiến hành một cơn bão lửa đánh lạc hướng trong khi họ di chuyển kỵ binh Anh đến Gloucester, để hộ tống một nhóm lính bộ binh kiếm thức ăn.
Đến ngày 5 tháng 10, Washington gần như đã sẵn sàng để mở tuyến song song đầu tiên. Đêm đó, những công binh và thợ mỏ làm việc, đặt những dải thông trên cát ướt để đánh dấu đường đi của chiến hào. Một nửa chiến hào được người Pháp chỉ huy, nửa còn lại do người Mỹ lãnh đạo. Ở cực bắc của tuyến Pháp, một rãnh hỗ trợ đã được đào để họ có thể bắn phá các tàu của Anh trên sông.[40] Người Pháp được lệnh đánh lạc hướng người Anh bằng một cuộc tấn công nghi binh, nhưng người Anh đã hay tin về kế hoạch này qua một kẻ đào ngũ người Pháp và hỏa lực pháo binh từ đồn fusil dồn sang bên người Pháp.
thumb|right|upright=1.15|[[George Washington|Washington bắn phát súng đầu tiên]] Vào ngày 7 tháng 10, người Anh thấy rằng chiến hào của đồng minh suýt soát lọt vào tầm bắn của súng hỏa mai.
Đến ngày 9 tháng 10, tất cả các khẩu pháo của Pháp và Mỹ đã vào vị trí. Washington ra lệnh cho pháo kích liên tục cả đêm để người Anh không thể tiến hành sửa chữa. Một số tàu của Anh cũng bị hư hại bởi những quả đạn lạc bay vào bến cảng. Tin rằng Cornwallis có thể đóng quân ở đó, họ đã nhắm vào và nhanh chóng phá hủy nó. Cornwallis đã đánh chìm hơn một chục tàu của ông ở bến cảng. Người Pháp bắt đầu pháo kích vào các tàu của Anh và bắn trúng được tàu HMS Charon của Anh, khiến nó bốc cháy, và lần lượt khiến hai hoặc ba tàu khác bén lửa. Cornwallis nhận được tin mới từ Clinton rằng hạm đội Anh sẽ khởi hành vào ngày 12 tháng 10, tuy nhiên Cornwallis trả lời rằng ông sẽ không thể cầm cự được lâu hơn nữa.
Vào đêm ngày 11 tháng 10, Washington ra lệnh cho người Mỹ đào một chiến tuyến thứ hai.
thumb|right|upright=1.15|Càn quét Đồn #9 Vào lúc 6:30 chiều, tiếng súng vang rền mở màn cho cuộc tấn công nghi binh vào đồn fusil. Ở những nơi khác trong chiến tuyến, các động thái dường như chỉ đến một cuộc tấn công chính diện vào Yorktown, khiến người Anh hoảng loạn. Người Mỹ tiến đến được đồn lẻ và bắt đầu phạt hết đống cây bằng rìu. Một lính gác người Anh phát hiện và báo thức đồng đội, bắn vào người Mỹ. Người Mỹ tràn vào được trong đồn, bị rơi xuống những cái lỗ khổng lồ tạo ra bởi cuộc pháo kích khai mào trước đó. Hỏa lực của Anh rất mạnh, nhưng người Mỹ vẫn áp đảo được họ. Trong cuộc tấn công, người Mỹ mất 9 người và 25 người khác bị thương.
Những người lính Anh diễu hành và hạ vũ khí xuống giữa quân đội Pháp và Mỹ, trong lúc nhiều thường dân theo dõi. Lúc này, quân đội ở bên kia sông tại Gloucester cũng đầu hàng. Các binh sĩ Anh đã được cấp đồng phục mới vài giờ trước khi đầu hàng và cho đến khi bị Tướng O'Hara ngăn cản, một số người đã ném súng hỏa mai với ý định phá hủy chúng. Những người khác khóc hoặc dường như say rượu. Tổng cộng, 8.000 quân, 214 khẩu pháo, hàng ngàn súng hỏa mai, 24 tàu vận tải, xe ngựa và ngựa bị tịch thu.
Thương vong
Số thương vong của Pháp là 60 người chết và 194 người bị thương và thương vong của Mỹ là 28 người chết và 107 người bị thương: tổng cộng 88 người thiệt mạng và 301 người bị thương.
Thống kê thương vong chính thức của Anh cho cuộc bao vây được liệt kê là 156 người chết, 326 người bị thương và 70 người mất tích. Cornwallis đã đầu hàng 7.087 sĩ quan và những lính nhập ngũ ở Yorktown khi ông ta đầu hàng và thêm 8 thủy thủ từ hạm đội Anh trên sông York. 84 tù nhân khác đã bị bắt trong cuộc tấn công vào các đồn trú vào ngày 16 tháng 10. Vì chỉ có 70 người được báo cáo là mất tích, điều này cho thấy 14 người 'bị giết' trên thực tế đã bị bắt. Do vậy có tổng cộng 142 người chết, 326 tù nhân bị thương và 7.685 tù nhân khác. Jerome A. Greene đề cập đến một thống kê của Đức có số liệu cao hơn nhiều: 309 người chết và 595 người bị thương.