✨Cuộc đổ bộ lên vịnh Lingayen

Cuộc đổ bộ lên vịnh Lingayen

Cuộc đổ bộ lên vịnh Lingayen là một chiến dịch đổ bộ do lực lượng Đồng Minh thực hiện ở Philippines trong Thế chiến II. Sáng sớm ngày 9 tháng 1 năm 1945, quân Đồng Minh chỉ huy bởi Phó Đô Đốc Jesse B. Oldendorf bắt đầu tiếp cận Lingayen từ Vịnh Lingayen. Những tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ và Hải quân Hoàng gia Úc khởi động chiến dịch bắn phá các vị trí được nghi ngờ là của quân Nhật dọc theo bờ biển Lingayen từ vị trí của họ ở vịnh Lingayen trong vòng 3 ngày. Vào ngày 9 tháng 1, Tập đoàn quân số 6 Lục quân Hoa Kỳ bắt đầu đổ bộ vào khu vực bãi biển trải dài hơn 40 km trong khu vực vịnh, nằm giữa thị trấn Lingayen và San Fabian.

Bối cảnh

Trong suốt Thế chiến II, vịnh Lingayen trở thành một trong những chiến trường quan trọng trên mặt trận Thái Bình Dương đối với cả lực lượng Hoa Kỳ và Đế quốc Nhật Bản. Ngày 22 tháng 12 năm 1941, Quân đoàn 14 Nhật dưới sự chỉ huy của Trung tướng Masaharu Homma đổ bộ lên phần phía Đông của vịnh tại Agoo, Caba, Santiago và Bauang. Ở những nơi này họ chạm trán với một số lực lượng nhỏ được trang bị yếu kém gồm chủ yếu là lính Mỹ và Philippines, rồi sau đó làm chủ được toàn bộ vịnh. Sau thất bại tại vịnh Lingayen Tướng MacArthur ban bố lệnh rút lui khỏi Luzon về Bataan. Và nơi này trong suốt 3 năm sau đó vẫn nằm trong quyền kiểm soát của người Nhật cho đến khi bắt đầu cuộc đổ bộ lên vịnh Lingayen.

Diễn biến

Chiến dịch bắn phá bãi biển

trái|nhỏ|Bản đồ về hệ thống đảo của Philippines Từ ngày 3 tới ngày 9 tháng 1 năm 1945, các tàu chiến của Đô đốc Oldendorf đã thực hiện những chuyến vượt biển dài qua các quần đảo đã được chiếm trước đó tại Vịnh Leyte ở Đông Nam Philippines, đi qua eo biển Surigao và biển Bohol tại quần đảo Visayas. Sau đó họ đổi hướng lên phía Bắc và di chuyển dọc theo bờ biển ở phía Tây đảo Negros, Panay và Mindoro. Hạm đội tiếp cận khu vực cửa Vịnh Lingayen trên đảo Luzon và bắt đầu những hoạt động đầu tiên. Tại cửa vịnh, các nhóm tàu quét mìn sẽ thực hiện nhiệm vụ dọn mìn mở đường cho 2 khu vực chính, một khu vực neo đậu của tàu đổ bộ ở cuối vịnh, nằm ở phía Tây bãi biển Lingayen, và một khu vực dành cho các bãi đổ bộ ở phía Đông thị trấn San Fabian. Diện tích của khu vực đổ bộ khá hẹp, chỉ rộng khoảng 25-30 dặm.

Trưa ngày 6 tháng 1 năm 1945, cuộc pháo kích và không kích dọn bãi biển chính thức bắt đầu. Các tàu chiến và máy bay từ hàng không mẫu hạm neo đậu dọc vịnh Lingayen đã tấn công liên tục vào các mục tiêu được nghi ngờ là vị trí phòng thủ của Nhật Bản. Đánh giá của quân Đồng Minh về sức kháng cự của Nhật Bản đã không chính xác khi vì phần lớn các vị trí ven biển tới khu vực trong liền ở xung quanh khu vực đổ bộ gần như không bắn trả đáng kể, nên các cuộc bắn phá được coi là không cần thiết.

Đổ bộ vào đất liền

Vào lúc 9:30 sáng ngày 9 tháng 1 năm 1945, khoảng 68.000 lính chỉ huy bởi Tướng Walter Krueger thuộc Tập đoàn quân số 6 (Hoa Kỳ), theo sau các cuộc bắn phá dữ dội của Hải quân rồi đổ bộ lên vịnh Lingayen và không gặp phải sự chống trả nào. Tổng cộng 203.608 lính đã đổ bộ thành công trong vài ngày sau trên một bờ biển trải dài 20 dặm, từ Sual, Lingayen và Dagupan (nơi đóng của Quân đoàn XIV) đi về hướng Tây, và từ San Fabian (nơi Quân đoàn I đóng) về hướng Đông. Lực lượng quân đội do Tướng MacArthur chỉ huy thậm chí đã vượt cả số lính Mỹ do Eisenhower chỉ huy ở chiến trường châu Âu. Chỉ trong vài ngày sau đó, lực lượng đổ bộ nhanh chóng kiểm soát được các thị trấn ven biển dọc theo nơi đổ bộ, bao gồm cả San Fabian.

Bất chấp những thành công nhanh chóng trong việc tiêu diệt các căn cứ Nhật trên đất liền, quân Mỹ cũng phải gánh chịu tổn thất đáng kể, đặc biệt là ở đội tàu hộ tống do những cuộc tấn công tự sát kamikaze thực hiện bằng máy bay. Từ ngày 4 đến 12 tháng 1, tất cả có 24 tàu bị đánh chìm và 67 chiếc khác bị hư hại bởi những máy bay loại này bao gồm cả những thiết giáp hạm như USS Mississippi và USS Colorado (bị trúng hỏa lực của đồng đội), tuần dương hạm hạng nặng HMAS Australia, tuần dương hạm hạng nhẹ USS Columbia, và tàu khu trục USS Long, USS Hovey

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Cuộc đổ bộ lên vịnh Lingayen** là một chiến dịch đổ bộ do lực lượng Đồng Minh thực hiện ở Philippines trong Thế chiến II. Sáng sớm ngày 9 tháng 1 năm 1945, quân Đồng
**USS _Lloyd_ (DE-209/APD-63)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Buckley_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên nó được đặt theo Thiếu úy Hải quân
**USS _Belknap_ (DD-251/AVD-8/DD-251/APD-34)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, được cải biến thành tàu tiếp liệu thủy phi cơ
**Cuộc hành quân xâm lược vùng vịnh Lingayen của Nhật Bản** (tiếng Philippines: Paglusob ng mga Hapones sa Golfo ng Lingayen) là điểm then chốt trong kế hoạch đánh chiếm Philippines của Nhật Bản. Việc
**USS _Halligan_ (DD-584)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Manley_ (DD-74/AG-28/APD-1)** là một tàu khu trục của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Caldwell_ được chế tạo và phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Được cho ngừng hoạt động không
**USS _Formoe_ (DE-509)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _John C. Butler_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy
**USS _Colahan_ (DD-658)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Richard S. Bull_ (DE-402)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _John C. Butler_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu
**USS _Abbot_ (DD-629)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _William D. Porter_ (DD-579)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải
**USS _Cony_ (DD-508/DDE-508)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Allen M. Sumner_ (DD-692)** là chiếc dẫn đầu của lớp tàu khu trục mang tên nó được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu
**USS _Helm_ (DD-388)** là một tàu khu trục lớp _Bagley_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được
**USS _Walke_ (DD-723)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải
**USS _Lang_ (DD-399)** là một tàu khu trục lớp _Benham_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được
**USS _Oberrender_ (DE-344)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _John C. Butler_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy
**USS _Schley_ (DD-103/APD-14)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và sau được cải biến thành tàu vận chuyển cao
**USS _William Seiverling_ (DE-441)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _John C. Butler_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến
**USS _Bull_ (DE-693/APD-78)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Buckley_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên nó được đặt theo Thiếu úy Hải quân
**USS _Tulagi_ (CVE-72)** là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; tên nó được đặt theo đảo Tulagi thuộc quần
**USS _Hoggatt Bay_ (CVE-75)** là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã hoạt động cho đến hết Thế
**USS _Goss_ (DE-444)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _John C. Butler_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy
**USS _Humphreys_ (DD-236/APD-12)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế giới
**USS _Patterson_ (DD-392)** là một tàu khu trục lớp _Bagley_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được
**USS _Charrette_ (DD-581)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Hall_ (DD-583)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Young_ (DD-580)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _Long_ (DD-209/DMS-12)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, trong Chiến tranh Thế giới thứ Hai được cải biến
**USS _Loeser_ (DE-680)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Buckley_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên nó được đặt theo Thiếu tá Hải quân
**USS _Foote_ (DD-511)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Thomason_ (DE-203)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Buckley_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên nó được đặt theo trung sĩ Thủy quân
**USS _Newcomb_ (DD-586)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Wedderburn_ (DD-684)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Leutze_ (DD-481)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Ammen_ (DD-527)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _LeRay Wilson_ (DE-414)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _John C. Butler_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến
**USS _Fletcher_ (DD/DDE-445)** là chiếc dẫn đầu của lớp tàu khu trục _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của
**USS _Howard F. Clark_ (DE-533)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _John C. Butler_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu
**_Kongō_** (tiếng Nhật: 金剛, Kim Cương) là chiếc tàu chiến-tuần dương đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc kiểu siêu-Dreadnought, là chiếc dẫn đầu của lớp Kongō bao gồm những chiếc _Hiei_,
**USS _Overton_ (DD-239)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế giới
**USS _Drayton_ (DD-366)** là một tàu khu trục lớp _Mahan_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được
**USS _Crosby_ (DD–164/APD-17)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau được cải biến thành tàu vận chuyển cao tốc
**USS _Steamer Bay_ (CVE-87)** là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã hoạt động cho đến hết Thế
**USS _Hank_ (DD-702)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải
**USS _Bryant_ (DD-665)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Yarnall_ (DD-541)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**Trận Luzon** là một trận đánh trên bộ nằm trong chiến tranh Thái Bình Dương thuộc Chiến tranh Thế giới lần II diễn ra giữa lực lượng quân Đồng Minh bao gồm Hoa Kỳ và
**USS _Hopkins_ (DD-249)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế giới
**USS _Collett_ (DD-730)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải