✨Cuộc chiến mùa hè

Cuộc chiến mùa hè

là một anime khoa học viễn tưởng lãng mạn do Hosoda Mamoru đạo diễn, vẽ bởi Madhouse và Warner Bros. Pictures làm khâu phân phối đã công chiếu vào ngày 01 tháng 8 năm 2009. Tại Liên hoan phim Nhật Bản: Thổi làn gió mới! Phim truyện và hoạt hình Nhật Bản 2013, bộ phim được giới thiệu có tựa đề tiếng Việt chính thức là Cuộc chiến mùa hè.

Cốt truyện kể về Koiso Kenji một nam sinh lớp 11 rất giỏi toán người mà đã đi cùng Shinohara Natsuki một nữ sinh lớp 12 về Ueda để dự sinh nhật lần thứ 90 của bà của Shinohara. Tuy nhiên khi ở đó anh đã vô tình phát hiện ra các trí tuệ nhân tạo đang hack vào thế giới ảo. Kenji đã phải tìm cách sửa chữa thế giới ảo cũng như ngăn các trí tuệ nhân tạo này lây lan ra và phá hủy nhiều thứ khác.

Sau khi sản xuất phim Cô gái vượt thời gian, Madhouse đã nhận được đề nghị sản xuất bộ phim tiếp theo. Hosoda và người viết kịch bản Okudera Satoko đã viết một câu truyện về các mối liên hệ xã hội và cách mà một người xa lạ bắt đầu tạo một mối liên hệ với gia đình thông qua các mạng xã hội. Địa danh thực được chọn để làm bối cảnh cho Summer Wars, vì đó là nơi mà gia tộc Sanada từng quản lý và nó gần với nơi mà Hosoda đã sinh ra tại Toyama. Hosoda sau khi ghé thăm gia đình hôn thê của mình tại Ueda đã dùng gia tộc Sanada làm hình mẫu cho gia đình Jinnouchi.

Việc thực hiện Summer Wars được bắt đầu vào năm 2006. Đạo diễn nghệ thuật Takeshige Youji đã sử dụng các ngôi nhà Nhật Bản vào cảnh nền của mình. Hosoda thì nhấn mạnh 80 thành viên của gia đình xuất hiện trong phim đều là nhân vật chính. Phim anime này được công bố lần đầu tiên tại Hội chợ Anime Quốc tế Tokyo năm 2008 đoạn phim giới thiệu được tung ra vào tháng 4 năm 2009. Việc thu thập ý kiến được thực hiện thông qua việc tiếp xúc trực tiếp hoặc qua internet. Chuyển thể manga thực hiện bởi Sugimoto Iqura đã phát hành vào tháng 7 năm 2009.

Summer Wars công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 01 tháng 8 năm 2009. Doanh thu tuần đầu công chiếu là 1 triệu USD cho 127 rạp đứng thứ 7 trong các phim chiếu rạp ăn khách. Phim anime này đã nhận được nhiều đánh giá tích cực từ các nhà phê bình và khán giả, doanh thu thu được từ việc công chiếu ra quốc tế là 18 triệu USD. Nó cũng đã giành được nhiều giải thưởng như Giải thưởng Viện Hàn lâm Nhật Bản, giải phim hoạt hình hay nhất của Liên hoan Nghệ thuật Truyền thông Nhật Bản, giải thưởng cho phim anime hay nhất được bình chọn tại Liên hoan phim quốc tế Anaheim và được đề cử cho giải Golden Leopard tại Liên hoan phim quốc tế Locarno năm 2009.

Tổng quan

Sơ lược cốt truyện

Koiso Kenji là một học sinh trẻ tại trường trung học Kuonji với năng khiếu toán học vượt bậc và là một người điều hành bán thời gian trong thế giới thực tế ảo mô phỏng khổng lồ OZ cùng với người bạn Sakuma Takashi.

Một ngày nọ, Kenji được mời bởi tiền bối khối trên ở Kuonji, Shinohara Natsuki tham gia vào sinh nhật lần thứ 90 của bà cố Jinnouch Sakaei. Sau khi đi đến khu bất động sản của Sakae ở Ueda, Natsuki giới thiệu Kenji là chồng chưa cưới của cô với Sakae, làm cả hai ngạc nhiên. Kenji gặp một số người thân của Natsuki và phát hiện ra nhà Jinnouchi là hậu duệ của một samurai (chư hầu của tộc Takeda), người đã thách đấu gia tộc Tokugawa vào năm 1615. Anh ta cũng gặp Wabisuke Jinnouchi, một người chú của làm nghề lập trình của Natsuki. sống ở Hoa Kỳ kể từ khi đánh cắp tài sản của gia đình 10 năm trước.

Kenji nhận được một e-mail có mã toán học và bẻ khóa nó. Tuy nhiên, Love Machine, một trí thông minh ảo do Wabisuke tạo ra, sử dụng tài khoản và hình đại diện của Kenji để hack cơ sở hạ tầng, gây thiệt hại trên diện rộng. Anh em họ của Kenji, Sakuma và Natsuki Ikezawa Kazuma đối đầu với Love Machine. Love Machine đánh bại avatar King Kazma của Kazuma và tiếp tục hấp thụ các tài khoản trong máy tính lớn OZ, tạo ra tắc nghẽn giao thông thảm khốc và vô hiệu hóa các thiết bị điện. Hai người thân của Sakae, Rika và Shota Jinnouchi, phát hiện ra sự liên quan của Kenji. Shota bắt giữ Kenji, nhưng sự tắc nghẽn khiến Natsuki đưa họ trở lại khu đất.

Sakae gọi các cộng sự vào các vị trí quan trọng trong xã hội Nhật Bản và người thân làm việc trong các dịch vụ khẩn cấp, khuyến khích họ làm việc chăm chỉ nhất để giảm hỗn loạn và thiệt hại, so sánh tình hình với chiến tranh. Kenji có thể trả lại quyền kiểm soát máy tính lớn cho người điều hành và kỹ sư trong khi Sakuma phát hiện ra rằng Kenji thực sự đã viết sai một phần của mã. Wabisuke giải thích rằng anh đã bán chương trình cho Lực lượng Vũ trang Hoa Kỳ để chạy thử và mở rộng nó thành một trí thông minh ảo. Sau cuộc cãi vã với Sakae, Wabisuke rời khỏi khu đất. Sakae sau đó khuyến khích Kenji chăm sóc Natsuki trong trận đấu Koi-Koi.

Sáng hôm sau, Sakae qua đời. Con trai út của bà, Mansaku giải thích rằng bà bị đau thắt ngực và Love Machine đã tắt máy theo dõi nhịp tim. Kenji, Sakuma và hầu hết nhà Jinnouchi lập kế hoạch đánh bại Love Machine bằng siêu máy tính sử dụng khối băng làm chất làm mát, trong khi Natsuki và những người khác chuẩn bị tang lễ cho Sakae.

Kenji, cùng với Sakuma và những người khác, bắt giữ Love Machine, nhưng Shota mang khối băng đến cơ thể của Sakae để làm mát thi thể, khiến siêu máy tính bị quá nóng. Love Machine hấp thụ Vua Kazma và chuyển hướng thăm dò tiểu hành tinh Arawashi vào một quá trình va chạm với một nhà máy điện hạt nhân. Trong khi đó, Natsuki phát hiện ra một di chúc do Sakae để lại và đoàn tụ với Kenji và những người khác trong nhóm. Natsuki đưa Wabisuke trở về nhà trước khi gia đình đọc di chúc của Sakae, yêu cầu họ đưa Wabisuke trở lại cuộc sống của họ. Nhận ra rằng Love Machine xem mọi thứ như một trò chơi, Kenji có nhà Jinnouchi đối đầu với Love Machine để chơi Koi-Koi trong thế giới sòng bạc của OZ, đánh cược các tài khoản của họ trong một nỗ lực tuyệt vọng để ngăn chặn Love Machine. Natsuki thắng vài vòng, nhưng bị phân tâm và suýt mất "tiền thắng".

Tuy nhiên, người dùng OZ trên toàn thế giới nhập tài khoản của riêng họ vào cuộc cá cược về phía Natsuki, điều này cũng nhắc nhở các chương trình người giám hộ của OZ, cá voi xanh và đỏ được gọi là John và Yoko Lần nâng cấp tài khoản của Natsuki. Natsuki đánh cược 150 triệu avatar được trao cho cô bằng một tay và làm tổn thương nghiêm trọng Love Machine, khiến trí thông minh nhân tạo chuyển hướng Arawashi về phía gia sản của Sakae. Kenji cố gắng đột nhập vào GPS của tàu thăm dò, trong khi Wabisuke vô hiệu hóa hệ thống phòng thủ của Love Machine. Sau khi được hồi sinh và hỗ trợ bởi một số avatar của gia đình Jinnouchi, Vua Kazma phá hủy Love Machine. Kenji kích hoạt mã GPS để chuyển Arawashi ra khỏi khu đất, phá hủy lối vào của bất động sản và khiến một mạch nước phun trào. Sau đó, gia đình Jinnouchi, ăn mừng chiến thắng cũng như sinh nhật của Sakae, Natsuki đã hôn Kenji sau khi họ thổ lộ tình yêu với nhau.

Nhân vật

Chính

;Koiso Kenji (小磯 健二, こいそ けんじ)
;Shinohara Natsuki (篠原 夏希, しのはら なつき)
:
;Sakuma Takashi (佐久間 敬, さくま たかし)
:
;Ikezawa Kazuma (池沢 佳主馬, いけざわ かずま)
:

Gia tộc Jinnouchi

;Jinnouchi Sakae (陣内 栄, じんのうち さかえ)
;Jinnouchi Wabisuke (陣内 侘助, じんのうち わびすけ)
:
;Jinnouchi Tokuei (陣内 徳衛, じんのうち とくえい)
;Jinnouchi Manzou (陣内 万蔵, じんのうち まんぞう)
;Shinohara Yukiko (篠原 雪子, しのはら ゆきこ)
:
;Shinohara Kazuo (篠原 和雄, しのはら かずお)
:
;Jinnouchi Mariko (陣内 万理子, じんのうち まりこ)
:
;Jinnouchi Rika (陣内 理香, じんのうち りか)
:
;Jinnouchi Riichi (陣内 理一, じんのうち りいち)
:
;Jinnouchi Mansuke (陣内 万助, じんのうち まんすけ)
:
;Jinnouchi Tasuke (陣内 太助, じんのうち たすけ)
:
;Jinnouchi Shōta (陣内 翔太, じんのうち しょうた)
:
;Miwa Naomi (三輪 直美, みわ なおみ)
:
;Ikezawa Kiyomi (池沢 聖美, いけざわ きよみ)
:
;Ikezawa Kazuma no chi chi (池沢佳主馬の父, いけざわかずまのちち)
:
;Jinnouchi Mansaku (陣内 万作(じんのうち まんさく))
:
;Jinnouchi Yorihiko (陣内 頼彦, じんのうち よりひこ)
:
;Jinnouchi Noriko (陣内 典子, じんのうち のりこ)
:
;Jinnouchi Mao (陣内 真緒, じんのうち まお)
:
;Jinnouchi Shingo (陣内 真悟, じんのうち しんご)
:
;Jinnouchi Kunihiko (陣内 邦彦, じんのうち くにひこ)
:
;Jinnouchi Nana (陣内 奈々, じんのうち なな)
:
;Jinnouchi Kana (陣内 加奈, じんのうち かな)
:
;Jinnouchi Katsuhiko (陣内 克彦, じんのうち かつひこ)
:
;Jinnouchi Yumi (陣内 由美, じんのうち ゆみ)
:
;Jinnouchi Ryōhei (陣内 了平, じんのうち りょうへい)
:
;Jinnouchi Yūhei (陣内 祐平, じんのうち ゆうへい)
:
;Jinnouchi Kyōhei (陣内 恭平, じんのうち きょうへい)

Khác

;John, Yoko (ジョン、ヨーコ) ;Hayate (ハヤテ) ;Doitsu no shōnen (ドイツの少年)

Kuraishisu obu OZ

;Yamanote Maki (山之手 真紀, やまのて まき) ;KK ;Ieyasu (イエヤス) ;Yamanote Yūji (山之手 祐司, やまのて ゆうじ) ;Oda Yoshio (織田 良夫, おだ よしお)

King Kazuma vs Queen OZ

;Tsujimoto Kaho (辻本 夏帆, つじもと かほ) ;Takewashi Wataru (竹橋 渡, たけはし わたる) ;Makino Rikiya (牧野 力也, まきの りきや) ;Kasugai Minami (春日井 南, かすがい みなみ) ;Wakamiya Futaba (若宮 双葉, わかみや ふたば) ;Nakajiyou (中条, なかじょう)

Phát triển

Sau thành công của Cô gái vượt thời gian, Madhouse đã được đề nghị sản xuất một bộ phim khác. Một phim mà Madhouse có thể làm giống như chuyển thể một tiểu thuyết mà họ vừa làm trước đó, nên họ đã nhận lời làm tiếp một phim nữa. Đạo diễn Hosoda Mamoru đã lựa chọn câu truyện mà trong đó có nói về người có gia đình và người không gia đình. Hosoda cho biết rằng ông rất ngưỡng mộ nét vẽ và phong cách nghệ thuật của Murakami Takashi và thiết kế của mạng xã hội "gọn gàng và ngăn nắp". Hosoda cũng đến nhà vị hôn thê của mình tại Ueda và lắng nghe về lịch sử gia đình. Hosoda nói rằng gia đình là yếu tố ảnh hưởng cơ bản cho các bộ phim của ông, ông luôn nói về nó từ đám cưới của mình cho đến các cuộc liên hoan phim.

Để hỗ trợ Hosoda, nhóm làm phim còn có nhà viết kịch bản Okudera Satoko và nhà thiết kế nhân vật Sadamoto Yoshiyuki, những người đã từng làm việc chung với Hosoda tham gia vào dự án Toki o Kakeru Shōjo trước đó. Aoyama Hiroyuki thì nhận việc đạo diễn hình ảnh trong khi Nishida Tatsuzo đạo diễn các chuyển động. Hosoda nhấn mạnh 80 thành viên của gia đình xuất hiện trong phim đều là nhân vật chính. Maruyama thì châm biếm rằng Hosoda từng luôn hứa sẽ chỉ có 2 nhân vật chính trong suốt 2 năm làm phim. Summer Wars là một trong kế hoạch chiến lược làm phim của Madhouse với việc tung ra một phim cho mỗi mùa. Tiếp nối việc phát hành là hai bộ phim Shinko và phép lạ nghìn năm và Yona Yona Penguin năm 2009 và REDLINE nửa đầu năm 2010.

Phát hành

Quảng bá

Summer Wars nhận được kỳ vọng rất cao trước khi phim được trình chiếu vì sự thành công của phim Cô gái vượt thời gian trước đó. Trước khi bộ phim phát hành Maruyama Masao tin rằng "Bộ phim hẳn đã phải khá nổi tiếng, vì số lượng đặt vé rất cao.". Tập tankōbon đầu tiên của chuyển thể này phát hành vào ngày 10 tháng 8 xếp hạng thứ 23 trên bảng xếp hạng truyện tranh Oricon với 51.645 bản được tiêu thụ. Tập tankōbon thứ hai phát hành ngày 04 tháng 2 năm 2010 đứng hạng thứ 12 với 53.333 bản được bán. Một loạt manga ngoại truyện khác cũng đã đăng trên tạp chí Comp Ace vào tháng 7 năm 2009.

Trình chiếu và phát hành

Summer Wars đã trình chiếu trong các rạp tại Nhật Bản vào ngày 01 tháng 8 năm 2009. Hosoda và nhóm làm phim sau đó cũng xuất hiện ở Viện Công nghệ Massachusetts, trong Chương trình nghiên cứu và so sánh truyền thông của các nước vào ngày 01 tháng 3 năm 2010. Phim anime chiếu ra mắt khán giả tại Úc vào ngày 14 tháng 6 năm 2010 như một phần chương trình liên hoan phim Sydney, bộ phim cũng được trình chiếu tại liên hoan phim IndieLisboa, liên hoan phim quốc tế Melbourne vào ngày 08 tháng 8 năm 2010, liên hoan phim quốc tế Leeds vào ngày 20 tháng 11 năm 2010.

Phim sau đó đã được phân phối tại Hàn Quốc bởi CJ Entertainment từ ngày 12 tháng 8 năm 2009, Cathay Organisation đảm nhận việc phân phối tại Singapore từ ngày 25 tháng 2 năm 2010, Mighty Media phân phối tại Đài Loan và Eurozoom phân phối tại Pháp, Funimation Entertainment phân phối tại Bắc Mỹ.

Truyền thông

Manga

Hosoda Mamoru đã thực hiện chuyển thể manga với sự minh họa của Ueda Yumehito có tựa Summer Wars King Kazuma vs Queen OZ (サマーウォーズ キング・カズマvsクイーン・オズ) và đăng trên tạp chí Comp Ace của Kadokawa Shoten từ ngày 25 tháng 7 năm 2009 đến ngày 26 tháng 4 năm 2010. Các chương sau đó đã được tập hợp lại và phát hành thành 2 tankōbon. Cốt truyện xoay quanh Kazuma Ikezawa người còn được biết trong OZ là King Kazuma tham gia vào một cuộc thi đấu võ thuật trong OZ.

Light novel

Tsuchiya Tsukasa đã thực hiện một chuyển thể light novel với tựa Summer Wars Kuraishisu obu OZ (サマーウォーズ クライシス・オブ・OZ) và Kadokawa Sneaker Bunko đã phát hành tác phẩm thẳng thành một bunkobon vào ngày 31 tháng 7 năm 2010. Cốt truyện xoay quanh Kazuma Ikezawa người còn được biết trong OZ là King Kazuma đang cố gắng giúp Yamanote Maki sau khi cô bị một kẻ tấn công và cướp mất một chương trình quan trọng do người anh trai chuyển giao, chương trình này có khả năng gây thiệt hại nặng cho OZ vì thế King Kazuma phải chiến đấu một lần nữa để bảo vệ OZ.

Âm nhạc

Phim có bài hát chủ đề là bài Bokura no Natsu no Yume (僕らの夏の夢) do Yamashita Tatsuro trình bày, đĩa đơn chứa bài hát đã phát hành vào ngày 18 tháng 9 năm 2009. Các bản nhạc dùng trong phim do Matsumoto Akihiko biên soạn, album chứa các bản nhạc này đã phát hành vào ngày 29 tháng 7 năm 2009.

Đón nhận

Đánh giá

Summer Wars đã nhận được đánh giá tích cực từ các nhà phê bình phim. Tính đến tháng 4 năm 2011, thì tại Rotten Tomatoes đã tổng hợp lại là có 76% các nhà phê bình đưa nhận xét tích cực với điểm trung bình là 7/10. Còn tại Metacritic thì tính đến tháng 2011 là có 63% đánh giá tích cực.

Mark Schilling của tờ báo The Japan Times đã đánh giá bộ phim là 5 trên 5 và đánh giá Summer Wars "Có chứa những yếu tố rất quen thuộc như các anh hùng rụt rè và hơi khác người đi cùng với nó là sự rực rỡ của trí tưởng tượng hiện đại và non nớt". Ông cũng nói rằng bộ phim cung cấp một cái nhìn xã hội về sự khác biệt giữa một "thế giới song song" và "thế giới kỹ thuật số". Ông ca ngợi Sadamoto, Aoyama và Nishida vì đã tạo ra "Những cảnh của cảnh tượng sống động và rực rỡ, các chuyển động lưu loát và ý tưởng sáng chế không đụng hàng, đã làm cho phim hoạt hình kỳ ảo có góc nhìn hồn nhiên và trẻ con". Guillem Rosset đã bình luận về Summer Wars trên Twitch Film rằng "Hosoda là vị vua mới trong việc kể truỵên thông qua anime tại Nhật Bản và - rất có thể - là cả thế giới", Rosset ca ngợi và nói bộ phim "Đa dạng về chi tiết và cốt truỵên thật đẹp... nhìn trông rất lộng lẫy". Ông cũng đề cập rằng "Các nhân vật là một trong những điểm mạnh nhất của bộ phim" và cũng nhấn mạnh vào thế giới ảo OZ rằng "Madhouse đã cho suy nghĩ sáng tạo của mình ở đây trở nên hoang dã". Với đến các khía cạnh kỹ thuật, Rosset nói rằng "Hosada Mamoru xứng đáng với vị trí nhà làm phim hoạt hình hàng đầu tại Nhật Bản. Và thật tốt khi biết rằng khi Miyazaki nghỉ hưu (hy vọng sẽ không quá sớm) thì sẽ có người đi theo bước chân của ông.". Justin Sevakis tại Anime News Network đã đánh giá bộ phim là "A" với nhận xét "Thêm vài thập kỷ nữa tính từ bây giờ, Summer Wars vẫn sẽ được xem như là sự đánh dấu quan trọng cho sự xuất hiện chính thức của đạo diễn Hosoda Mamoru vào lĩnh vực hoạt hình.". Ông mô tả bộ phim là "Một sự pha trộn gần như hoàn hảo giữa xã hội và khoa học viễn tưởng, hiện tại và tương lai, chua chát và lạc quan", ông cũng nói bộ phim là "Đầy thực tế với cái nhìn xã hội một cách sâu sắc và sắc nét theo cách mà chúng ta đã không thấy trong các phim hoạt hình trong những năm gần đây.". Sevakis ca ngợi thiết kế nhân vật của Sadamoto Yoshiyuki và nhấn mạnh rằng các hình ảnh "Sắc nét và nhất quán một các tuỵêt vời". Có những điểm tương đồng được nhận thấy giữa các tác phẩm trước đây của Hosoda như Digimon Adventure: Our War Game và phim. Tạp chí Neo đã gọi Our War Game là "Mẫu thử nghiệm" của Summer Wars.

Rachel Saltz tại The New York Times cũng đã đưa ra đánh giá tích cực về bộ phim. Saltz đánh giá cao các hình ảnh và chủ đề, so sánh chúng với đạo diễn Ozu Yasujirō. Trong bài nhận xét của mình Peter Debruge đã nói về việc đạo diễn của Hosoda là "Ông đã thu hút sự chú ý của các khán giả tuổi teen khó chiều bằng cách lấy lấy ý tưởng của họ và làm chúng sống động như thật". Ông cũng ca ngợi các hình ảnh trong OZ. Peter Hartlaub tại San Francisco Chronicle đã khen phong cách của Hosoda là "Các kiểu nhân vật và các trận đánh sôi động được xuất hiện nhiều đủ để khiến cho sự yên bình ở thế giới thật trở thành một ước mơ". Ông cũng so sánh phong cách Hosoda với Miyazaki Hayao và Nintendo. Hartlaub phàn nàn rằng nhân vật của Kenji là "Hơi quá đà ngay từ đầu" và kết luận rằng bộ phim là "Loại phim vui nhộn và kỳ quặc mà bạn không thấy thường xuyên trong ngôi nhà nghệ thuật những năm gần đây.". Ty Burr tại The Boston Globe đã đánh giá bộ phim 3 trên 4 sao. Ông nói rằng "Summer Wars hấp dẫn nhất là trong những khoảnh khắc yên lặng" và đánh giá cao cốt truyện do Okudera Satoko viết và cũng ca ngợi hình ảnh của OZ. V.A. Musetto tại New York Post đã đánh giá bộ phim là 2 trên 4 sao và đánh giá bộ phim là "Tuyệt vời mặc dù vấn đề với cấu trúc của nó". Musetto phê bình về phần cốt truyện, ông nói rằng "Khoa học viễn tưởng là yếu tố có vẻ ngớ ngẩn hơn là tạo sự gây cấn.". Nicolas Rapold tại The Village Voice đánh giá cao hình ảnh của bộ phim và nói rằng "Thật khó để diễn tả nhân vật thông qua lời nói trong những cảnh kịch tính cũng như trong những đoạn gây cấn".

Doanh số trình chiếu

Tại Nhật Bản, Summer Wars có doanh thu đứng thứ 7 với doanh thu khoảng 1.338.772 $ từ 127 rạp chiếu phim trong tuần đầu công chiếu, tổng cộng bộ phim có doanh thu 17.425.019 $ tại Nhật. Tại Hàn Quốc, bộ phim đứng ở vị trí thứ 8 với doanh thu khoảng 369.156 $ từ 118 rạp chiếu phim trong tuần đầu, tổng cộng bộ phim có doanh thu khoảng 783.850 $ tại Hàn Quốc, tổng cộng bộ phim có doanh thu khoảng 29.785 $ tại Singapore.

Doanh số phát hành

Bộ phim được phát hành tại Nhật Bản vào ngày 03 tháng 3 năm 2010 với phiên bản định dạng DVD và Blu-ray. Trong tuần đầu tiên phát hành bộ phim đã trở thành phiên bản Blu-ray anime bán chạy nhất tại Nhật Bản với khoảng 54.000 bản được bán và vượt kỷ lục trước đó tạo bởi Evangelion: 1.0 You Are (Not) Alone. Summer Wars cũng đã đứng đầu bảng xếp hạng Oricon Animation DVD với 55.375 bản được bán ra trong tuần đầu tiên phát hành. Phiên bản Blu-ray của Summer Wars đã được Hiệp hội giải trí số Nhật Bản đề cử giải Sản phẩm tương tác hay nhất.

Tại châu Âu, Kazé đã tiến hành việc phát hành phiên bản DVD và Blu-ray của bộ phim từ ngày 26 tháng 11 năm 2010. Manga Entertainment đã đăng ký bản quyền phát hành tại Anh, Funimation Entertainment đăng ký bản quyền tại Bắc Mỹ.

Danh hiệu và đề cử

Summer Wars là phim hoạt hình Nhật Bản đầu tiên được đưa vào như một đối thủ cạnh tranh các giải thưởng trong Liên hoan phim quốc tế Locarno tại Thụy Sĩ nơi mà nó đã được đề cử cho giải Báo Vàng năm 2009. Bộ phim ra mắt quốc tế tại lễ hội của liên hoan manga. Bộ phim được trình chiếu tại Liên hoan phim Sitges trong danh mục Oficial Fantàstic Panorama, nơi mà nó đã giành được giải thưởng Gertie cho Phim hoạt hình xuất sắc nhất. Summer Wars đã nhận được danh hiệu cho sản phẩm truyền thông mới của Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản trong hội nghị hàng năm của Hiệp hội giải trí số vào ngày 24 tháng 10 năm 2009. Summer Wars cũng được đề cử giải Phim hoạt hình xuất sắc nhất tại lễ trao giải điện ảnh châu Á - Thái Bình Dương, dù vậy bô phim đã không giành chiến thắng. Bộ phim được trao Giải thưởng lớn dành cho phim hoạt hình tại Liên hoan Nghệ thuật Truyền thông Nhật Bản lần thứ 13. Summer Wars đã thắng Giải thưởng Xuất sắc cho phim hoạt hình cùng với bốn bộ phim khác tại Lễ trao giải Viện Hàn lâm Nhật Bản lần thứ 33. Việc nhận Giải thưởng xuất sắc cũng có nghĩa là bộ phim được đề cử tranh Giải thưởng Phim hoạt hình của năm và bộ phim đã thắng giải này trong buổi lễ diễn ra ngày 05 tháng 3 năm 2010. Bộ phim được trình chiếu tại Liên hoan phim quốc tế Berlin lần thứ 60 như một phần của chương trình Generation 14plus. Summer Wars đã thắng Giải thưởng do Khán giả bình chọn cho Phim hoạt hình xuất sắc nhất tại Liên hoan phim quốc tế Anaheim. Funimation cùng với GKIDS đã đăng ký bộ phim cho việc tranh giải Phim hoạt hình xuất sắc nhất tại Giải Oscar lần thứ 83. Bộ phim là ứng viên thứ 14 cho danh hiệu đó. Hosoda nhận được một đề cử giải Annie cho Đạo diễn xuất sắc nhất và trở thành người Nhật thứ ba bên cạnh Miyazaki Hayao và nhà soạn nhạc Joe Hisaishi của Ghibli được đề cử giải Annie cá nhân kể từ năm 2004.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
là một anime khoa học viễn tưởng lãng mạn do Hosoda Mamoru đạo diễn, vẽ bởi Madhouse và Warner Bros. Pictures làm khâu phân phối đã công chiếu vào ngày 01 tháng 8 năm 2009.
Đã có nhiều lo ngại và tranh cãi liên quan đến Thế vận hội Mùa hè 2024, bao gồm những lo ngại về an ninh, vấn đề nhân quyền, và tranh cãi về việc cho
**Thế vận hội Mùa hè 1896** (), tên chính thức là **Thế vận hội Mùa hè lần thứ I**, là sự kiện thể thao quốc tế được tổ chức tại thành phố Athens, thủ đô
**Bắn cung** đã ra mắt tại Thế vận hội Mùa hè 1900 và đã được tranh tài trong 16 kỳ Thế vận hội. 84 quốc gia đã thi đấu trong các sự kiện bắn cung
Bóng chuyền trở thành một môn thi đấu chính thức ở Thế vận hội Mùa hè cho cả nam và nữ từ năm 1964. Brasil, Hoa Kỳ, và Liên Xô cũ là những đội giành
thumb|right|Lá cờ được sử dụng trong khoảng 1900-1920 thumb|right|Lá cờ được sử dụng trong khoảng 1924-1956 thumb|right|[[Cờ hiệu đỏ Canada#Các phiên bản|Lá cờ được sử dụng năm 1936]] thumb|right|Lá cờ được sử dụng trong khoảng
, tên chính thức là (), và thường được gọi là **Tokyo 1964**, là một sự kiện thể thao đa môn quốc tế được tổ chức từ ngày 10 đến ngày 24 tháng 10 năm
**Thế vận hội Mùa hè 201**6 (, ), tên chính thức là **Thế vận hội** **Mùa hè lần thứ XXXI** () và được chính thức quảng bá với tên gọi **_Rio 2016_**, là một sự
**Thế vận hội Mùa hè 1980** (), tên chính thức là **Thế vận hội** **Mùa hè lần thứ XXII** () và tên thương hiệu chính thức là **Moscow 1980** (), là một sự kiện thể
**Thế vận hội Mùa hè 1920** (; ; ), tên gọi chính thức là **Thế vận hội** **Mùa hè lần thứ VII** (; ; ) và thường được gọi là **Antwerp 1920** (; Dutch and
nhỏ|Cuộc diễu hành nhân dịp khánh thành sân vận động vào ngày 8 tháng 6 năm 1913. **Thế vận hội Mùa hè 1916** (), tên gọi chính thức là **Thế vận hội** **Mùa hè lần
**Thế vận hội Mùa hè 1992** (, ), tên chính thức là **Thế vận hội** **Mùa hè lần thứ XXV** (,), được tổ chức tại Barcelona, xứ Catalonia, Tây Ban Nha từ ngày 25 tháng
Bóng đá xuất hiện tại mọi kỳ Thế vận hội Mùa hè trừ 1896 và 1932 đối với nội dung bóng đá nam. Nội dung bóng đá nữ chính thức được thêm vào chương trình
**Thế vận hội Mùa hè 2000**, tên chính thức là **Thế vận hội** **Mùa hè lần thứ XXVII**, được đặt thương hiệu là **_Sydney 2000_** và còn được gọi là "**Thế vận hội của Thiên
**Thế vận hội Mùa hè 1944**, tên chính thức là **Thế vận hội** **Mùa hè lần thứ XIII**, là một sự kiện thể thao đa môn quốc tế dự kiến được tổ chức từ ngày
thumb|Các quốc gia tham dự lễ khai mạc Thế vận hội 1912 tại Stockholm. Dưới đây là danh sách các **quốc gia**, đại diện bởi Ủy ban Olympic quốc gia (NOCs), đã tham dự **Thế
**Tiếp thị Thế vận hội Mùa hè 2020** là một chiến dịch dài hạn bắt đầu khi Tokyo giành được quyền đăng cai đại hội vào năm 2013. ## Biểu tượng ### Biểu trưng Biểu
Tổng cộng 12 đội tuyển đã tham dự **nội dung bóng đá nữ tại Thế vận hội Mùa hè 2008**. Ngoài quốc gia chủ nhà Trung Quốc, 11 đội tuyển nữ khác đã giành quyền
**Thế vận hội Mùa hè 1948**, tên chính thức là **Thế vận hội Mùa hè lần thứ XIV** và được gọi thương hiệu chính thức là “**Luân Đôn 1948**”, là một sự kiện thể thao
**Thế vận hội Mùa hè 1952** (, ), tên chính thức là **Thế vận hội** **Mùa hè lần thứ XV** (, ), và thường được biết đến với tên gọi **Helsinki 1952**, là một sự
**Bảng tổng sắp huy chương Thế vận hội Trẻ Mùa hè 2018** () là một danh sách các Ủy ban Olympic Quốc gia (NOC) được xếp hạng bởi số lượng huy chương vàng giành được
Các cuộc thi bơi lội tại Thế vận hội Mùa hè 2016 ở Rio de Janeiro dự kiến ​​sẽ diễn ra từ ngày 6 tới 13 tháng 8 tại sân vận động Thể thao dưới
Giải bóng đá nữ tại Thế vận hội Mùa hè 2016 được tổ chức từ 3 tới 19 tháng 8 năm 2016. Đây là lần thứ sáu môn bóng đá nữ Thế vận hội được
Xe đạp đường trường nam là một trong 18 nội dung xe đạp của Thế vận hội Mùa hè 2016 ở Rio de Janeiro. Chặng đua diễn ra trong ngày 6 tháng Tám tại Pháo
Giải bóng chuyền nữ tại Thế vận hội Mùa hè 2020 là lần thứ 15 nội dung thi đấu xuất hiện tại các kỳ Thế vận hội Mùa hè, được tổ chức bởi Liên đoàn
**Giải bóng chuyền nam tại Thế vận hội Mùa hè 2020** là lần thứ 15 nội dung thi đấu xuất hiện tại các kỳ Thế vận hội Mùa hè, được tổ chức bởi Liên đoàn
Nội dung bóng chày tại Thế vận hội Mùa hè ra mắt một cách không chính thức tại Thế vận hội 1904 ở St. Louis và lần đầu tiên được đưa vào thi đấu như
**Thế vận hội Mùa hè 1988** (), tên chính thức là **Thế vận hội Mùa hè lần thứ XXIV** () và được thương hiệu hóa chính thức là **Seoul 1988** (), là một sự kiện
**Thế vận hội Mùa hè 1996** (tên chính thức là **Thế vận hội** **Mùa hè lần thứ XXVI**, còn được gọi là **Atlanta 1996** và thường được biết đến với tên gọi **Thế vận hội
**Thế vận hội Mùa hè 1976** (), tên chính thức là **Thế vận hội** **Mùa hè lần thứ XXI** () và được quảng bá chính thức với tên **_Montréal 1976_** _(__)_, là một sự kiện
**Thế vận hội mùa hè** hay **Olympic mùa hè** là một sự kiện thể thao quốc tế được tổ chức bốn năm một lần với nhiều môn thể thao, được tổ chức bởi Ủy ban
**Đức** tham dự **Thế vận hội Mùa hè 1896** tại Athena, Hy Lạp. Người Đức rất thành công vì đứng thứ ba trong tổng số huy chương vàng (6 tính thêm 1 vì nằm trong
**Thế vận hội Mùa hè 2012** (), chính thức được gọi là **Thế vận hội lần thứ XXX** (Games of the XXX Olympiad), còn được biết đến với tên gọi **Luân Đôn 2012**, là một
Nhật Bản tham dự Thế vận hội Mùa hè 2024 tại Paris từ ngày 26 tháng 7 đến ngày 11 tháng 8 năm 2024. Kể từ khi chính thức tham gia vào năm 1912, các
**Giải bóng đá nữ vòng loại Thế vận hội CONCACAF 2016** Có tổng cộng tám đội tham dự giải. Hai đội tuyển có thành tích tốt nhất sẽ giành vé tham dự môn bóng đá
là một sự kiện thể thao đa môn quốc tế dành cho người khuyết tật được tổ chức từ ngày 24 tháng 8 đến ngày 5 tháng 9 năm 2021 ở Tokyo, Nhật Bản. Ban
**Vòng loại khu vực châu Á** của **môn bóng đá nam tại Thế vận hội Mùa hè 2004** là giải đấu vòng loại của Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) cho giải bóng đá
**Giải bóng đá nam tại Thế vận hội Mùa hè 2020** được tổ chức từ ngày 22 tháng 7 đến ngày 7 tháng 8 năm 2021, và là lần thứ 27 của giải bóng đá
**Nhật Bản** là quốc gia đăng cai **Thế vận hội Mùa hè 2020** tại Tokyo từ ngày 24 tháng 7 đến ngày 9 tháng 8 năm 2020. Kể từ khi chính thức tham gia vào
thumb|right|Trung tâm quần vợt Thế vận hội tại công viên Olympic Barra Môn quần vợt tại Thế vận hội Mùa hè 2016 diễn ra tại Trung tâm quần vợt Olympic, từ 6 tới 14 tháng
**Giải vòng loại bóng đá nữ Thế vận hội của CAF năm 2015** là lần thứ tư giải đấu vòng loại bóng đá nữ Thế vận hội khu vực châu Phi được tổ chức. Giải
**Vòng thứ nhất** của **vòng loại** **môn bóng đá nam Thế vận hội Mùa hè 2008** **khu vực châu Á** diễn ra từ ngày 7 đến ngày 14 tháng 2 năm 2007. ## Thể thức
Giải golf của nam tại Thế vận hội Mùa hè 2016 diễn ra từ 11 tới 14 tháng 8 năm 2016 tại Sân golf Olympic (), thuộc khu dự trữ thiên nhiên Reserva de Marapendi
thumb|[[Đội tuyển bóng đá quốc gia Anh Quốc|Anh Quốc giành huy chương vàng sau khi vượt qua Đan Mạch trong trận chung kết.]] thumb|Đan Mạch giành huy chương bạc. Tại **Thế vận hội Mùa hè
**Việt Nam** tham dự Thế vận hội Mùa hè 2016 tại Rio de Janeiro, Brasil từ ngày 5 đến ngày 21 tháng 8 năm 2016 với 23 vận động viên ở 10 môn thi đấu.
Mười ba vận động viên từ **Pháp** tham gia 6 bộ môn tại **Thế vận hội Mùa hè 1896**. Pháp là nước thứ tư giành được nhiều huy chương vàng nhất với 5 huy chương
**Bắn cung tại Thế vận hội Mùa hè 2004** được tổ chức tại sân vận động Panathinaiko ở Athens, Hy Lạp với các vòng xếp hạng vào ngày 12 tháng 8 và cuộc thi đấu
**Giải đấu vòng loại bóng đá nữ Thế vận hội OFC 2016** là lần thứ tư Giải đấu vòng loại bóng đá nữ Thế vận hội của OFC được tổ chức nhằm xác định đội
**Đội tuyển Olympic người tị nạn** thi đấu tại Thế vận hội Mùa hè 2016 ở Rio de Janeiro, Brasil từ ngày 5 đến ngày 21 tháng 8 năm 2016 với tư cách là các
Giải đấu bóng chuyền nữ tại Thế vận hội Mùa hè 2016 được tổ chức lần thứ 14 tại Thế vận hội do các Liên đoàn bóng chuyền quốc tế thực hiện, cùng với Ủy