✨Cung điện Potala

Cung điện Potala

Cung điện Potala (; Hán Việt: Bố Đạt La cung) là một cung điện nằm ở Lhasa, khu tự trị Tây Tạng, Trung Quốc. Đây từng là nơi ở của các đời Đạt-lai Lạt-ma cho đến khi Đạt-lai Lạt-ma thứ 14 lưu vong sang Dharamsala, Ấn Độ sau khi Quân Giải phóng Nhân dân xâm nhập Tây Tạng vào năm 1959. Ngày nay nó là một bảo tàng lịch sử, một Di sản thế giới được UNESCO công nhận từ năm 1994. Tên của nó được đặt theo ngọn núi Potalaka là nơi ở huyền thoại của Quán Thế Âm Bồ Tát. Công trình được khởi công xây dựng bởi Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 5 vào năm 1645. Đây là địa điểm lý tưởng như là nơi đặt Chính phủ vì nó nằm giữa hai tu viện Sera, Drepung và thành phố Lhasa. Cung điện này bao phủ cả một pháo đài trước đó đã được xây dựng được gọi là Bạch cung và Hồng cung được xây dựng bởi Songtsän Gampo vào năm 637.

Công trình có kích thước chiều đông-tây và chiều bắc-nam với những bức tường đá dốc trung bình có độ dày và tại nền móng để giúp nó chống chịu lại những trận động đất. Mười ba tầng của cung điện có tổng cộng hơn 1.000 phòng, 10.000 đền thờ và 200.000 bức tượng. Điểm cao nhất của nó cao trên Marpo Ri và so với thung lũng phía dưới.

Truyền thuyết kể rằng, ba ngọn đồi chính của Lhasa đại diên cho ba vị thần bảo hộ của Tây Tạng. Chagpori ngay phía nam Potala là ngọn đồi linh hồn của Vajrapani, Pongwari của Manjusri, và Marpori là ngọn đồi nơi cung điện Potala tọa lạc đại diện cho Avalokiteśvara.

Lịch sử

thumb|left|Căn phòng cũ của Đạt-lai Lạt-ma với hình ảnh tượng trưng của vị Đạt-lai Lạt-ma thứ 14 [[Tenzin Gyatso.]] Cung điện Potala được xây dựng trên một cung điện cũ trước đó được xây dựng bởi Songtsän Gampo. Potala còn hai nhà nguyện góc tây bắc bảo tồn các phần còn lại của công trình ban đầu. Một là Phakpa Lhakhang và cái còn lại là Chogyel Drupuk, một hang động được cho là Songtsen Gampo sử dụng để thiền. Ngawang Lobsang Gyatso đã xây dựng cung điện hiện đại vào năm 1645, Đạt-lai Lạt-ma và Chính phủ của ông chuyển đến Potrang Karpo (Bạch cung) vào năm 1649., tức là khoảng 12 năm sau khi vị Đạt-lai Lạt-ma thứ 5 qua đời. Potala sau đó được sử dụng như là một Cung điện Mùa đông của các đời Đạt-lai Lạt-ma từ thời điểm đó. Potrang Marpo (Hồng cung) đã được thêm vào giữa năm 1690 và 1694.

Cung điện bị hư hại trong Cuộc nổi dậy của người Tây Tạng chống lại Trung Quốc vào năm 1959, khi đạn pháo của Quân giải phóng Trung Quốc nã vào các cửa sổ cung điện. Trước khi Chamdo Jampa Kalden bị bắn và bắt làm tù binh bởi các binh sĩ của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, ông đã chứng kiến ​​"đạn pháo bắt đầu nã xuống Norbulingka vào nửa đêm ngày 19 tháng 3 năm 1959...Bầu trời sáng rực khi đạn pháo Trung Quốc bắn trúng Trường cao đẳng y tế Chakpori và cung điện Potala." Potala sau đó thoát khỏi cuộc Đại Cách mạng Văn hóa vô sản năm 1966 thông qua sự can thiệp cá nhân của Chu Ân Lai, khi đó là Tổng lý Quốc vụ viện Trung Quốc. Nhà hoạt động Tây Tạng Tsering Woeser tuyên bố rằng, cung điện chứa "hơn 100.000 tập kinh sách và tài liệu lịch sử" và "nhiều phòng lưu trữ đồ vật quý giá, đồ thủ công mỹ nghệ, tranh vẽ, tranh treo tường, tượng và áo giáp cổ", "gần như bị cướp bóc hết". Nhà nghiên cứu sinh học Amy Heller viết rằng, "thư viện vô giá và kho báu nghệ thuật được tích lũy qua nhiều thế kỷ ở Potala đã được bảo tồn."

Potala được UNESCO công nhận là Di sản thế giới từ năm 1994. Năm 2000 và 2001, Chùa Đại Chiêu và La Bố Lâm Khải được bổ sung vào danh sách như là một phần mở rộng của cung điện. Tuy nhiên, quá trình hiện đại hóa nhanh chóng khiến UNESCO thể hiện sự lo ngại về việc xây dựng các công trình hiện đại ngay xung quanh cung điện, đe dọa đến cảnh quan độc đáo của cung điện. Chính phủ Trung Quốc đã đáp trả bằng cách ban hành một quy tắc cấm xây dựng bất kỳ cấu trúc nào cao hơn 21 mét trong khu vực. Tổ chức này cũng lo ngại về các vật liệu được sử dụng trong quá trình phục hồi cung điện bắt đầu vào năm 2002, mặc dù giám đốc của cung điện Qiangba Gesang, đã làm rõ rằng, họ chỉ sử dụng vật liệu truyền thống và thủ công.

Số lượng du khách đến tham quan Potala bị hạn chế ở mức 1.600 người mỗi ngày, với giờ mở cửa giảm xuống còn sáu giờ mỗi ngày để tránh tình trạng đông đúc từ ngày 1 tháng 5 năm 2003. Trước đó, bình quân cung điện đón khoảng 1.500 du khách, và đôi khi đạt đến ngưỡng 5.000 khách. Việc lên mái của cung điện bị cấm sau khi các nỗ lực phục hồi phần này được hoàn thành vào năm 2006 để tránh thiệt hại về cấu trúc. Sau khi mở tuyến Đường sắt Thanh-Tạng vào ngày 1 tháng 7 năm 2006, hạn ngạch cho du khách tăng lên 2.300 người, nhưng con số này nhanh chóng đạt được ngay giữa buổi sáng. Mùa cao điểm kéo dài từ tháng 7 đến 9, với 6.000 du khách ghé thăm công trình này mỗi ngày.

Kiến trúc

thumb|Cung điện Potala ở Lhasa. Cung điện Potala được xây dựng ở độ cao 3.700 m (12.100 ft) so với mực nước biển, trên đồi Ri Marpo, ở trung tâm thung lũng Lhasa. Cung điện có những bức tường dốc lớn với những hàng mái bằng, cao thấp ở các đoạn khác nhau và chỉ bị gián đoạn bởi những hàng cửa sổ dài, không giống như cấu trúc của một pháo đài. Phía nam của cung điện là khoảng không gian rộng lớn được bao bọc bởi những bức tường và cửa, bên trong là những cổng vòm cột đồ sộ. Một loạt các cầu thang nằm bên trong dẫn lên đỉnh đồi.

Phần nội cung là nhóm các tòa nhà nằm trong khu vực tứ giác rộng lớn. Công trình trung tâm tại phần này được gọi là Hồng cung nổi bật với màu đỏ thẫm khiến nó dễ dàng được phân biệt với những phần còn lại. Tại đây chứa các sảnh, hội trường, nhà nguyện, đền thờ của các đời Đạt-lai Lạt-ma trong quá khứ. Ngoài ra là rất nhiều những bức tranh trang trí phong phú, với các tác phẩm trang sức, chạm khắc và trang trí khác.

Mặt tiền màu trắng ở phía nam của cung điện được sử dụng để nâng hai cột thangka khổng lồ, với hình ảnh của Đa-la và Tất-đạt-đa Cồ-đàm được sử dụng trong Lễ hội Sertreng diễn ra vào ngày 30 của tháng Tây Tạng thứ hai. Miếu Phổ Đà Thừa Chi (普陀宗乘之庙), một phần của Di sản thế giới Ngoại Bát Miếu được xây dựng từ năm 1767 đến 1771 một phần được mô phỏng dựa theo cung điện Potala. Cung điện được chương trình Good Morning America và tờ báo nổi tiếng USA Today bình chọn là một trong Bảy kỳ quan mới của thế giới. Cung điện Leh ở Leh, Ladakh, Ấn Độ được xây dựng bởi vua Sengge Namgyal (1570-1642) là công trình tiền thân và nguồn cảm hứng của Cung điện Potala.

Hình ảnh

File:The rooftop of the Potala.jpg|Tầng thượng của Cung điện Potala File:Lhasa.jpg|Trên mái của Potala File:Potala palace22.jpg|Quang cảnh Potala từ Cổng Tây Lhasa cũ File:Lhasa Zhol Rdo-rings 1993.JPG|[Cột Lhasa Zhol] File:Potala Palace (23651397662).jpg|Các hàng cửa sổ Cổng Tây nhìn từ đường cao tốc, 2015 File:Potala-from-behind 07-2005.jpg|Quang cảnh của Potala từ phía sau, nhìn từ Ching Drol Chi Ling File:View of Potala from side.jpg|Quang cảnh của Potala từ phía bên File:The quiet and peaceful park, pond, and chapel behind the Potala.jpg|Công viên, ao và nhà nguyện phía sau Potala File:Chinese stone lion at the entrance to the Potala Pallace.jpg|Sư tử tuyết bảo vệ lối vào Potala File:Deatail of decoration in Potala.jpg|thumb|Chi tiết trang trí tại Potalaa File:Ceilings in the Potala Palace.jpg|thumb|Mái hiên đầy màu sắc trong cung điện File:Potala 2.jpg|Hồng cung
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Cung điện Potala** (; Hán Việt: Bố Đạt La cung) là một cung điện nằm ở Lhasa, khu tự trị Tây Tạng, Trung Quốc. Đây từng là nơi ở của các đời Đạt-lai Lạt-ma cho
Truyện Tranh Tìm Hiểu Khoa Học - Cao Nguyên Thanh Tạng Cao nguyên Thanh Tạng là cao nguyên cao nhất thế giới, được mệnh danh là Mái nhà thế giới. Nơi đây có các động
**La Bố Lâm Khải** hay **Norbulingka** (; Wylie: _Nor-bu-gling-ka_; ; nghĩa đen là "Công viên gắn đá quý") là một cung điện nằm tại Lhasa, Tây Tạng, Trung Quốc, xây dựng từ năm 1755. Nó
**Lhasa** (phiên âm "La-sa", ; , Hán Việt: **Lạp Tát**), đôi khi được viết là **Llasa**, là thủ đô truyền thống của Tây Tạng và hiện nay là thủ phủ của Khu tự trị Tây
nhỏ|Bức ảnh này trích trong một chương về [[Ấn Độ trong cuốn _Câu chuyện về các quốc gia của Hutchison_, mô tả Ajatashatru đến thăm Đức Phật để giác ngộ tội lỗi của mình.]] **Phật
**Tây Tạng** (, tiếng Tạng tiêu chuẩn: /pʰøː˨˧˩/; (_Tây Tạng_) hay (_Tạng khu_)), được gọi là **Tibet** trong một số ngôn ngữ, là một khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal,
thumb|262x262px|Dinh thự Ganden Podrang tại tu viện Drepung, nơi từng là trụ sở của các Dalai Lama cho tới thế kỷ thứ 17 . Chính quyền **Ganden Phodrang** () là bộ máy chính phủ của
**Tây Tạng** là một khu vực tại Trung Á, nằm trên cao nguyên Thanh Tạng, có cao độ trung bình trên 4.000 mét và được mệnh danh là "nóc nhà của thế giới". Con người
nhỏ|262x262px|Người Tạng **Người Tạng** hay **người Tây Tạng** (; ; Hán Việt: Tạng tộc) là một dân tộc bản địa tại Tây Tạng, vùng đất mà ngày nay hầu hết thuộc chủ quyền của Cộng
**Lịch sử Ấn Độ độc lập** bắt đầu khi Ấn Độ trở thành quốc gia độc lập trong Khối Thịnh vượng chung Anh vào ngày 15 tháng 8 năm 1947. Kể từ năm 1858, người
**Thanh Cao Tông** (chữ Hán: 清高宗, , 25 tháng 9 năm 1711 – 7 tháng 2 năm 1799), Tây Tạng tôn vị **Văn Thù Hoàng Đế** (文殊皇帝), là Hoàng đế thứ sáu của Nhà Thanh
**Thanh Thế Tổ** (chữ Hán: 清世祖; 15 tháng 3 năm 1638 – 5 tháng 2 năm 1661), họ Ái Tân Giác La, húy **Phúc Lâm**, là hoàng đế thứ hai của nhà Thanh và là hoàng
**Duy-ma-cật sở thuyết kinh** (, , _Vimalakīrti Nirdeśa Sūtra_, ) là một tác phẩm quan trọng của Phật giáo Đại thừa, có ảnh hưởng rất lớn đến nền Phật giáo tại Trung Quốc, Việt Nam
Dưới đây là danh sách các Di sản thế giới do UNESCO công nhận tại châu Á và châu Đại Dương. ## Afghanistan (2) nhỏ|[[Minaret ở Jam|trái]] * Tháp giáo đường ở Jam và các
**Thắng cảnh loại AAAAA** (chữ Hán giản thể: 国家5A旅游景区, _Quốc gia 5A lữ du cảnh khu_) là các thắng cảnh, khu du lịch tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được Cơ quan Du lịch
**Vương quốc Tây Tạng** là một quốc gia tồn tại từ khi Nhà Thanh sụp đổ năm 1912, kéo dài cho đến khi bị Trung Quốc sáp nhập năm 1951. Chế độ Ganden Phodrang tại
**Bhrikuti Devi** (chữ Phạn: भृकुटी), được người Tạng biết tới như là **Belmoza Tritsün** (chữ Tạng: , _Phu nhân Nepal_) , hay ngắn gọn là **Tritsün** (_Phu nhân_), là công chúa vương quốc Licchavi, người
**Doãn Đề** (, chữ Hán: 允禵; 10 tháng 2 năm 1688 – 16 tháng 2 năm 1755), là Hoàng tử thứ 14 tính trong số những người con sống tới tuổi trưởng thành của Thanh
nhỏ|phải|Vị linh đồng chuyển thế Phật sống [[Gedhun Choekyi Nyima được cho là bị Chính quyền Trung Quốc giam giữ thủ tiêu để đưa người thân chính quyền lên chức vị Lạt Ma]] **Linh đồng
nhỏ|phải|Khu phố cổ La Havana nhỏ|phải|[[Phố cổ Hội An]] **Phố cổ** hay **khu phố cổ** (tiếng Anh: old town) trong là khu vực lõi mang tính lịch sử văn hóa hoặc tính kiến trúc nguyên
**Hán hóa Tây Tạng** là một cụm từ được sử dụng bởi các nhà phê bình về sự cai trị của Trung Quốc ở Tây Tạng để chỉ sự đồng hoá văn hoá xảy ra
**Leh** (tiếng Hindi: लेह; ) là một thị trấn thuộc huyện Leh của bang Jammu và Kashmir. Nơi đây từng là thủ đô của vương quốc Ladakh miền Himalaya, với trung tâm là cung điện
thumb|right|Một tượng sư tử tuyết lớn gác cổng vào [[Cung điện Potala]] thumb|Một hình xăm sư tử tuyết **Sư tử tuyết** (; ; Hán Việt: **thụy sư**) là một thần vật của Tây Tạng. Nó
nhỏ|Ngọn núi Pothigai Malai tại bang [[Tamil Nadu, nơi được xem là nguyên mẫu cho ngọn núi truyền thuyết Potalaka ở Ấn Độ.]] **Núi Potalaka** (tiếng Trung: 補陀落山 - Phổ Đà lạc sơn, tiếng Nhật:
thế=Vị trí của Ü-Tsang|phải|350x350px **Ü-Tsang** (tiếng Tây Tạng: དབུས་གཙང་, Wylie: _Dbus-gtsang_, , Hán-Việt: Vệ Tạng), hay **Tsang-Ü**, là một trong tỉnh truyền thống của Tây Tạng, hai tỉnh kia là Amdo và Kham. Về
**Khedrup Gyatso** hay phiên âm theo Hán Việt là **Khải-châu Gia-mục-thố** (sinh ngày 1 tháng 11 năm 1838 – mất ngày 31 tháng 1 năm 1856) là Đạt-lại Lạt-ma thứ 11 của Tây Tạng. Ông
**Ngoại Bát Miếu** có nghĩa là 8 ngôi chùa lớn, nằm ở phía Đông Bắc của Tị Thử Sơn Trang ở Thừa Đức. Các ngôi chùa này vây quanh Sơn Trang như 8 vì tinh
phải|Chùa Phổ Ninh **Chùa Phổ Ninh** (), hay **Phổ Ninh Tự** nằm ở Thừa Đức, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc (thường gọi là Chùa Phật lớn) là một ngôi chùa được xây dựng vào thời
**Tsangyang Gyatso** hay Thương Ương Gia Thố, Tibetan: ཚངས་དབྱངས་རྒྱ་མཚོ, Phiên âm tiếng Tây Tạng Wylie: _tshangs-dbyangs rgya-mtsho_, ZYPY: _Cangyang Gyamco_ (倉央嘉措 hay Tsangyang Gyatso, (1 tháng 3 năm 1683- 15 tháng 11 năm 1706) là
Đây là các **lâu đài** xếp theo **quốc gia**. ## Albania ## Argentina * Castillo Naveira ## Armenia ## Áo ## Azerbaijan ## Belarus ## Bỉ ## Bosnia và Herzegovina ## Brazil * Castelo do
nhỏ|phải|Bogd Khan **Bogd Khan** (tiếng Mông Cổ: Богд хаан, 1869-1924) đã trở thành **Bogd Gegeen Ezen Khaan** của Đại Hãn quốc Mông Cổ vào năm 1911, khi Ngoại Mông tuyên bố độc lập từ triều
**La-bốc-tạng Gia-mục-thố** (zh. 羅卜藏嘉穆錯, bo. _blo bzang rgya mtsho_ བློ་བཟང་རྒྱ་མཚོ་, sa. _sumatisāgara_), 1617-1682, là giáo chủ tông Cách-lỗ từ 1622-1682, giữ quyền cai trị Tây Tạng từ 1642-1682. Sư là Đạt-lại Lạt-ma thứ năm và
nhỏ|phải|Bánh xe kinh luân trên tay một nhà sư nhỏ|phải|Một đại kinh luân (bánh xe lớn) **Bánh xe cầu nguyện** hay còn gọi là **Kinh luân** là một bánh xe hình trụ () trên một
**Chùa Tiểu Chiêu**, tên chữ là **Tiểu Chiêu tự** (); ; là một tu viện Phật giáo được coi là quan trọng thứ hai tại Lhasa chỉ sau chùa Đại Chiêu (Jokhang). Tu viện nằm
**Khu tự trị Tây Tạng** (tiếng Tạng: བོད་རང་སྐྱོང་ལྗོངས་; Wylie: Bod-rang-skyong-ljongs, phiên âm: [pʰøː˩˧˨ ʐaŋ˩˧.coŋ˥˩ t͡ɕoŋ˩˧˨]; tiếng Trung giản thể: 西藏自治区; tiếng Trung phồn thể: 西藏自治區; bính âm: Xīzàng Zìzhìqū) là một đơn vị hành chính