✨Con lắc
Con lắc theo định nghĩa chung nhất là một vật gắn vào một trục cố định mà nó có thể xoay (hay dao động) một cách tự do. Khi đưa con lắc dịch chuyển khỏi vị trí cân bằng theo chiều ngang, nó sẽ chịu một lực phục hồi do tác dụng của hấp dẫn đưa nó trở lại vị trí cân bằng. Khi được thả ra, lực phục hồi kết hợp với trọng lượng của con lắc khiến cho nó dao động xung quanh vị trí cân bằng. Thời gian để con lắc hoàn thiện một lần dao động tới lui gọi là chu kỳ dao động. Chu kỳ dao động phụ thuộc vào độ dài của con lắc cũng như một phần vào biên độ. Tuy nhiên, nếu như biên độ là nhỏ và con lắc không chịu lực cản hay ma sát nào thì chu kỳ dao động độc lập với biên độ con lắc dao động.
Từ khi được khám phá và nghiên cứu bởi Galileo Galilei vào năm 1602, chuyển động đều của con lắc đã được ứng dụng để đo thời gian và là thiết bị đo thời gian chính xác nhất cho đến thập niên 1930. Đồng hồ quả lắc được Christian Huygens phát minh vào năm 1658 đã trở thành thời gian kế tiêu chuẩn của thế giới, được sử dụng tại gia và văn phòng trong 270 năm và có sai số khoảng một giây mỗi năm trước khi nó được thay thế bởi các đồng hồ thạch anh vào những năm 1930. Con lắc cũng được áp dụng vào các dụng cụ đo đạc khoa học như gia tốc kế và địa chấn kế. Trong lịch sử, chúng còn được sử dụng trong các hấp dẫn kế để đo gia tốc hấp dẫn trong khảo sát địa lý hay thậm chí để làm đơn vị chuẩn của độ dài.
Chu kỳ dao động
Chu kỳ dao động của một con lắc trọng lực đơn giản phụ thuộc vào chiều dài của nó, gia tốc trọng trường địa phương và ở một mức độ nhỏ dựa trên góc cực đại mà con lắc dao động so với phương thẳng đứng, θ0, được gọi là biên độ. Chu kỳ này độc lập với khối lượng của quả nặng. Nếu biên độ được giới hạn bởi dao động nhỏ thì chu kỳ T của một con lắc đơn (thời gian để hoàn thành một chu kỳ hoàn chỉnh) sẽ là:
:
Trong đó là chiều dài của con lắc và là gia tốc trọng trường địa phương.
Đối với dao động nhỏ, chu kỳ dao động xấp xỉ như nhau đối với các góc khác nhau: khoảng thời gian này không phụ thuộc vào biên độ. Tính chất này, được gọi là tính đẳng thời, là lý do mà các con lắc rất hữu ích cho việc đo thời gian.. Sự dao động liên tiếp của con lắc, ngay cả khi thay đổi biên độ, vẫn mất cùng một khoảng thời gian.
Đối với các biên độ lớn hơn, chu kỳ tăng dần theo biên độ nên nó sẽ dài hơn so với phương trình (1). Ví dụ, ở biên độ θ0 = 23°, chu kỳ dao động lớn hơn 1% so với phương trình (1) dự đoán. Khoảng thời gian tăng đến vô cùng khi θ0 tiến tới 180°, vì tại giá trị θ0 = 180°, hệ đang trong trạng thái cân bằng không ổn định. Chu kỳ thực sự của một con lắc trọng lực đơn giản lý tưởng có thể được viết dưới nhiều hình thức khác nhau (xem Con lắc (toán học)), một ví dụ là chuỗi vô hạn:
:
đơn vị radian.Sự khác biệt giữa khoảng thời gian thực này và khoảng thời gian cho các dao động nhỏ (1) ở trên được gọi là sai số vòng (circular error). Trong trường hợp của đồng hồ ông nội điển hình có con lắc có góc quệt là 6° và do đó biên độ là 3° (0,05 radian), chênh lệch giữa chu kỳ thực và xấp xỉ góc nhỏ (1) lên tới khoảng 15 giây mỗi ngày.
Đối với dao động nhỏ, con lắc xấp xỉ một dao động điều hòa và chuyển động của nó là một hàm của thời gian, t, là khoảng chuyển động điều hòa đơn giản: :
Đối với con lắc thực, thời gian thay đổi một chút theo các yếu tố như sự nổi và độ nhớt của không khí, khối lượng của dây hoặc thanh, kích thước và hình dạng của bob và cách nó được treo trên dây, và tính linh hoạt và độ căng của dây. Trong các ứng dụng thực tế, việc hiệu chỉnh các yếu tố này có thể cần được áp dụng cho pt (1) để đưa ra con số chính xác.
Con lắc vật lý
Bất kỳ hệ vật rắn nào xoay tự do quanh một trục ngang cố định được gọi là con lắc hỗn hợp hoặc con lắc vật lý. Độ dài tương đương thích hợp L để tính chu kỳ một con lắc bất kỳ như vậy chính là khoảng cách từ trục đến tâm dao động. Điểm này luôn nằm dưới khối tâm; khoảng cách giữa điểm treo và tâm dao động được gọi là bán kính dao động. Vị trí của nó phụ thuộc vào phân bố khối lượng của con lắc. Nếu phần lớn khối lượng tập trung ở một quả nặng tương đối nhỏ so với chiều dài con lắc, tâm dao động sẽ gần với khối tâm.
Bán kính dao động hoặc độ dài tương đương L của một con lắc vật lý bất kỳ có thể được biểu diễn như sau : trong đó là mômen quán tính của con lắc theo điểm treo, là khối lượng của con lắc và là khoảng cách giữa điểm treo và khối tâm. Thay biểu thức này vào pt (1) nêu trên, khoảng thời gian của một con lắc hỗn hợp được cho sẽ là : cho dao động đủ nhỏ.
Ví dụ: một thanh đồng nhất cứng có chiều dài có mômen quán tính được cho quay quanh một đầu. Khối tâm nằm ở trung tâm của thanh, vì vậy Thay thế các giá trị này vào phương trình trên ta được . Điều này chứng tỏ rằng một con lắc vật lý có cùng chu kỳ với một con lắc đơn có chiều dài bằng 2/3 của chiều dài thanh.
Christiaan Huygens đã chứng minh vào năm 1673 rằng điểm treo và tâm dao động có thể thế chỗ nhau. Điều này có nghĩa là bất kỳ con lắc nào bị đảo lộn rồi vung lên từ một trục nằm ở tâm dao động trước đó, nó sẽ có cùng chu kỳ như trước và tâm dao động mới sẽ ở điểm treo cũ. Năm 1817, Henry Kater áp dụng ý tưởng này để sản xuất một loại con lắc có thể đảo ngược, gọi là con lắc Kater, để cải thiện các phép đo gia tốc trọng trường.
Lịch sử
thumb|Mô hình tái dựng địa chấn kế của Trương Hành. Con lắc được chứa bên trong.
Một trong những ứng dụng sớm nhất của con lắc là địa chấn kế vào thế kỷ I được sáng chế bởi Trương Hành, một người Trung Quốc đời nhà Hán. Cơ chế hoạt động của nó là: khi có động đất, con lắc sẽ dao động và kích hoạt một trong những đòn bẩy bên trong thiết bị. Đòn bẩy sẽ húc một quả bóng nhỏ rơi vào một trong tám miệng con cóc kim loại bên dưới, được đặt tại tám điểm của la bàn, biểu thị hướng của trận động đất. cho rằng nhà thiên văn học Ai Cập thế kỷ X Ibn Yunus đã sử dụng một con lắc để đo thời gian, nhưng đây là một sai lầm bắt nguồn từ năm 1684 bởi nhà sử học người Anh Edward Bernard.
Thời Phục hưng, các con lắc bơm tay lớn được sử dụng làm nguồn năng lượng cho các máy đối ứng thủ công như cưa, ống thổi và bơm. Leonardo da Vinci từng phác họa rất nhiều về chuyển động của con lắc, nhưng không nhận ra nó hữu ích trong việc đo thời gian.
1602: Nghiên cứu của Galileo
Nhà khoa học người Ý Galileo Galilei là người đầu tiên nghiên cứu các tính chất của con lắc, bắt đầu vào khoảng năm 1602. Báo cáo sớm nhất về nghiên cứu của ông được nhắc đến trong một bức thư gửi Guido Ubaldo dal Monte từ Padua, ngày 29 tháng 11 năm 1602. Nhà viết tiểu sử và học trò của ông, Vincenzo Viviani, khẳng định rằng sự quan tâm của ông đến con lắc được khơi dậy vào khoảng năm 1582 bởi chuyển động lắc lư của một chiếc đèn chùm trong Nhà thờ Pisa. Galileo đã khám phá ra tính chất quan trọng làm cho con lắc trở nên hữu ích trong việc đo thời gian, được gọi là tính đẳng thời; chu kì của con lắc xấp xỉ độc lập với biên độ và chiều rộng của dao động. Ông cũng nhận thấy rằng khoảng thời gian này không phụ thuộc vào khối lượng của quả nặng và tỷ lệ với căn bậc hai chiều dài con lắc. Ông sử dụng các con lắc tự do trong các ứng dụng đo thời gian đơn giản. Người bạn bác sĩ của ông, Santorio Santorii, đã phát minh ra một thiết bị đo nhịp tim của bệnh nhân bằng chiều dài của một con lắc; gọi là pulsilogium. Con lắc là cơ cấu dao động điều hòa đầu tiên được con người sử dụng. Đây là một cải tiến lớn so với đồng hồ cơ thời bấy giờ; độ lệch thời gian nhỏ nhất của chúng được cải thiện từ khoảng 15 phút mỗi ngày thành khoảng 15 giây mỗi ngày. Các con lắc lan rộng khắp châu Âu khi các đồng hồ hiện có được trang bị thêm.
Nhà khoa học người Anh Robert Hooke đã nghiên cứu con lắc hình nón vào khoảng năm 1666, một con lắc có thể tự do lắc theo hai chiều, với quả nặng vẽ ra quỹ đạo hình tròn hoặc hình ê-líp. Ông đã sử dụng các chuyển động của thiết bị này như một mô hình để phân tích chuyển động quỹ đạo của các hành tinh. Hooke đề nghị với Isaac Newton vào năm 1679 rằng các thành phần của chuyển động quỹ đạo bao gồm chuyển động quán tính dọc theo hướng tiếp tuyến cộng với chuyển động hấp dẫn theo hướng xuyên tâm. Điều này đóng góp một phần trong công thức của Newton về định luật vạn vật hấp dẫn. Robert Hooke cũng chịu trách nhiệm đề xuất sớm nhất là vào năm 1666, rằng con lắc có thể được sử dụng để đo lực hấp dẫn. Vào năm 1687, Isaac Newton đã chỉ ra trong cuốn Princia Mathematica rằng, do Trái đất không phải là một hình cầu thực sự mà có phần dẹt lại (dẹt ở hai cực) do tác dụng của lực ly tâm tạo ra bởi sự tự quay của chính nó khiến lực hấp dẫn tăng theo vĩ độ. Các con lắc di động tiện lợi bắt đầu được các nhà thám hiểm mang theo trong các chuyến đi đến những vùng đất xa xôi, để làm thước đo gia tốc trọng trường chính xác tại những địa điểm khác nhau trên Trái đất, cuối cùng tạo ra các mô hình chính xác về hình dạng của Trái đất.
1673: Horologium Oscillatorium của Huygens
Năm 1673, 17 năm sau khi phát minh ra đồng hồ quả lắc, Christiaan Huygens công bố lý thuyết về con lắc trong cuốn, Horologium Oscillatorium sive de motu Pendulorum. Marin Mersenne và René Descartes đã phát hiện ra vào khoảng năm 1636 rằng con lắc không hoàn toàn đẳng thời; chu kỳ của nó dường như tỷ lệ thuận với biên độ. Huygens phân tích vấn đề này bằng cách xác định một đường cong mà một vật phải đi theo để hạ xuống theo trọng lực đến cùng một điểm trong cùng một khoảng thời gian, bất kể điểm bắt đầu; đường cong đó chính là đường tautochrone. Bằng một phương pháp phức tạp gần giống với phép vi phân, ông đã chứng minh đường cong này là một cycloid, chứ không phải là cung tròn vệt ra bởi một con lắc, xác nhận rằng con lắc không phải là đẳng thời và quan sát về đẳng tích của Galile chỉ chính xác đối với các dao động nhỏ. Huygens cũng giải quyết vấn đề làm thế nào để tính chu kỳ của một con lắc có hình dạng tùy ý (gọi là con lắc vật lý), khám phá ra tâm dao động và khả năng hoán đổi của nó với điểm treo.
1721: Con lắc bổ chính nhiệt độ
thumb|right|[[Con lắc Foucault năm 1851 là mô phỏng chuyển động quay của Trái Đất đầu tiên không dựa vào các quan sát thiên văn học, và nó còn tạo ra một "cơn sốt con lắc". Trong hoạt hình này, chuyển động tuế sai được phóng đại]]
Trong thế kỷ 18 và 19, vai trò của đồng hồ quả lắc chính xác nhất đã thúc đẩy nhiều nghiên cứu thực tế trong việc cải tiến con lắc. Người ta tìm ra một lỗi lớn, đo là dây con lắc giãn nở và co lại theo nhiệt độ môi trường, thay đổi chu kỳ xoay. Điều này đã được giải quyết với việc phát minh ra các con lắc bổ chính nhiệt độ, con lắc thủy ngân năm 1721 và con lắc Gridiron năm 1726, giảm sai số trong đồng hồ quả lắc chính xác xuống vài giây mỗi tuần. sử dụng nguyên lý này, thực hiện các phép đo trọng lực rất chính xác. Trong thế kỷ tiếp theo, con lắc đảo ngược là phương pháp tiêu chuẩn để đo gia tốc trọng trường tuyệt đối.
1851: Con lắc Foucault
Năm 1851, Jean Bernard Léon Foucault chỉ ra rằng mặt phẳng dao động của một con lắc, giống như con quay hồi chuyển, có xu hướng không đổi bất kể chuyển động của trục, và điều này có thể được sử dụng để chứng minh sự tự quay của Trái đất. Ông đã treo một con lắc tự do đu theo hai chiều (sau này được đặt tên là con lắc Foucault) từ mái vòm của Điện Panthéon ở Paris. Chiều dài của dây là 67 m (220 ft). Khi con lắc được cho chuyển động, mặt phẳng xoay được quan sát thấy tiến động hoặc quay 360° theo chiều kim đồng hồ trong vòng 32 giờ. Đây là minh chứng đầu tiên về sự quay của Trái đất không phụ thuộc vào các quan sát thiên thể, và một "cơn sốt con lắc" đã nổ ra, con lắc Foucault sau đó được trưng bày ở nhiều thành phố và thu hút đông khách tham quan.
1930: Sụt giảm trong sử dụng
Khoảng năm 1900, vật liệu giãn nở nhiệt thấp bắt đầu được sử dụng cho dây con lắc trong đồng hồ có độ chính xác cao nhất và nhiều dụng cụ khác, invar đầu tiên, một hợp kim thép niken, và sau này là thạch anh nung chảy, làm cho việc phải bổ chính nhiệt độ trở nên tào lao. Các con lắc chính xác được đặt trong các bể áp suất thấp, giữ cho áp suất không khí không đổi để ngăn biến động trong chu kỳ do thay đổi độ nổi của con lắc do thay đổi áp suất khí quyển.
Độ chính xác về thời gian của con lắc bị vượt qua bởi bộ dao động tinh thể thạch anh, được phát minh vào năm 1921 và đồng hồ thạch anh, được phát minh vào năm 1927, thay thế đồng hồ quả lắc và trở thành máy đo thời gian tốt nhất thế giới.[2] Đồng hồ quả lắc được sử dụng làm tiêu chuẩn tính giờ cho đến Thế chiến 2, mặc dù Dịch vụ thời gian của Pháp tiếp tục sử dụng chúng làm tiêu chuẩn thời gian chính thức cho đến năm 1954. Trong lực kế con lắc đã được thay thế bằng các trọng lực kế "rơi tự do" vào những năm 1950, nhưng các dụng cụ gồm con lắc vẫn tiếp tục được sử dụng vào những năm 1970.
Ứng dụng đo thời gian
Trong 300 năm, từ khi được phát hiện ra vào khoảng năm 1582 cho đến khi đồng hồ thạch anh được phát triển vào những năm 1930, con lắc là tiêu chuẩn đo thời gian chính xác nhất. Ngoài con lắc đồng hồ, con lắc hai giây tự do được sử dụng rộng rãi như công cụ định thời chính xác dùng trong các thí nghiệm khoa học ở thế kỷ XVII và XVIII. Con lắc đòi hỏi sự ổn định cơ học lớn: sự thay đổi chiều dài chỉ 0,02%, 0,2 mm trong con lắc đồng hồ, sẽ gây ra sai số lên đến một phút mỗi tuần.
Con lắc đồng hồ
thumb|Con lắc và [[bộ thoát neo của một đồng hồ ông nội]] thumb|upright=0.7|Hoạt hình minh họa một [[bộ thoát neo, bộ thoát đồng hồ được sử dụng rộng rãi nhất trong các đồng hồ quả lắc.]]
Các con lắc trong đồng hồ (xem ví dụ ở bên phải) thường là một quả nặng (b) được treo trên một thanh làm bằng gỗ hoặc kim loại (a). Để giảm sức cản không khí (tác nhân chính làm hao tổn năng lượng trong đồng hồ chính xác) quả nặng thường có hình dạng một đĩa trơn có tiết diện hình thấu kính. Trong các đồng hồ cổ hơn, quả lắc có thêm chạm khắc hoặc trang trí đặc trưng cho loại đồng hồ. Trong các đồng hồ chất lượng, quả nặng được làm nặng nhất có thể, vì điều này giúp đồng hồ cải thiện khả năng tự hiệu chỉnh của chúng. Trọng lượng phổ biến cho quả nặng con lắc hai giây là 15 pound (6,8 kg). Thay vì treo trên trục, con lắc đồng hồ thường được treo trên một lò xo thẳng ngắn (d) của ruy băng kim loại linh hoạt. Cơ cấu này giảm thiểu ma sát và lực xoắn do trục quay và lực uốn nhẹ của lò xo chỉ làm tăng thêm lực phục hồi của con lắc chút ít. Đồng hồ có độ chính xác cao nhất sở hữu các lưỡi dao nằm trên các tấm làm từ đá mã não. Các xung để giữ cho con lắc dao động được cung cấp bởi một cánh tay treo sau con lắc gọi là cái nạng, (e), đầu nạng được gọi là cái nĩa, (f) có các ngạnh ôm lấy thanh lắc. Nạng đồng hồ được đẩy qua lại bởi bộ thoát đồng hồ, (g,h).
Mỗi khi con lắc dao động qua vị trí trung tâm, cơ cấu sẽ nhả ra một chiếc răng của bánh xe thoát (g). Lực của lò xo dây cót đồng hồ hoặc tải trọng con lái treo trên ròng rọc được truyền qua hệ thống bánh răng, khiến bánh xe quay và một chiếc răng ấn vào một trong những cái pallet (h), cung cấp cho con lắc một cú húc ngắn. Các bánh xe của đồng hồ, khớp với các bánh thoát, di chuyển về phía trước một lượng cố định sau mỗi vòng lắc, đẩy kim đồng hồ với tốc độ ổn định.
Con lắc phải có một cơ cấu điều chỉnh chu kỳ, thường là bằng một đai ốc điều chỉnh (c) nằm dưới quả nặng di chuyển nó lên hoặc xuống trên thanh. Di chuyển con lắc lên làm giảm chiều dài dây, khiến cho con lắc chạy nhanh hơn và đồng hồ thêm được thời gian. Một số đồng hồ chính xác có trọng lượng điều chỉnh phụ nhỏ trên trục ren trên quả nặng, để cho phép điều chỉnh tốt hơn. Một số đồng hồ tháp và đồng hồ chính xác sử dụng một khay được gắn gần điểm giữa của thanh con lắc, giúp ta có thể thêm hoặc loại bỏ trọng lượng. Việc thêm bớt trọng lượng khiến tâm dao động bị dịch chuyển và cho phép điều chỉnh tốc độ mà không phải dừng đồng hồ.
Con lắc phải được treo trên một giá đỡ cứng chắc. Trong quá trình vận hành, bất kỳ độ co giãn dù có nhỏ thế nào đi chăng nữa vẫn sẽ gây ra nhiễu loạn trong chuyển động, làm xáo trộn sự đo thời gian của đồng hồ, dẫn đến các sai số. Do vậy, đồng hồ quả lắc nên được gắn chắc chắn vào một bức tường.
Chiều dài con lắc phổ biến nhất trong đồng hồ chất lượng, luôn được sử dụng trong đồng hồ ông nội, là con lắc hai giây, dài khoảng 1 mét (39 inch). Trong đồng hồ đặt kệ, con lắc nửa giây, dài 25 cm (9,8 in) hoặc ngắn hơn, được sử dụng. Chỉ có một vài đồng hồ tháp lớn sử dụng con lắc dài hơn, con lắc 1,5 giây, dài 2,25 m (7,4 ft) hoặc đôi khi là con lắc hai giây, 4 m (13 ft), được sử dụng trên tháp đồng hồ của cung điện Westminster.
Bổ chính nhiệt độ
thumb|Con lắc thủy ngân trong đông hồ hiệu chỉnh thiên văn Howard, 1887
Nguồn sai số lớn nhất trong các con lắc sớm là những thay đổi nhỏ về chiều dài do sự giãn nở và sự co lại của thanh con lắc bởi sự thay đổi nhiệt độ môi trường. Điều này đã được phát hiện khi có người nhận thấy đồng hồ quả lắc chạy chậm hơn khoảng một phút mỗi tuần vào mùa hè (một trong những người đầu tiên phát hiện ra hiện tượng này là Godefroy Wendelin, được Huygens báo cáo vào năm 1658). Sự giãn nở nhiệt của thanh con lắc được nghiên cứu đầu tiên bởi Jean Picard vào năm 1669. Một con lắc có thanh thép sẽ mở rộng thêm khoảng 11,3 ppm với mỗi độ tăng Celsius, khiến nó mất khoảng 0,27 giây mỗi ngày cho mỗi độ tăng Celsius, hoặc 9 giây mỗi ngày cho sự thay đổi 33 °C (59 °F). Thanh gỗ mở rộng ít hơn, chỉ mất khoảng 6 giây mỗi ngày cho sự thay đổi 33 °C (59 °F), đó là lý do tại sao đồng hồ chất lượng thường có thanh con lắc bằng gỗ. Gỗ phải được đánh vecni để ngăn hơi nước xâm nhập, vì sự thay đổi độ ẩm cũng sẽ ảnh hưởng đến chiều dài.
Con lắc thủy ngân
Thiết bị đầu tiên bù đắp cho lỗi này là con lắc thủy ngân, được phát minh bởi George Graham Để cải thiện sự hiệu chỉnh nhiệt, một số chỗ chứa mỏng thường được sử dụng, làm bằng kim loại. Con lắc thủy ngân là tiêu chuẩn được sử dụng trong đồng hồ bổ chính chính xác vào thế kỷ XX.
Con lắc Gridiron
thumb|Sơ đồ một con lắc gridiron
A: thiết kế mặt ngoài
B: nhiệt độ thường
C: nhiệt độ cao
Con lắc bổ chính được sử dụng rộng rãi nhất là con lắc Gridiron, được phát minh vào năm 1726 bởi John Harrison. đạt được độ chính xác 15 mili giây mỗi ngày. Lò xo treo của Elinvar đã được sử dụng để loại bỏ sự thay đổi nhiệt độ của lực phục hồi của lò xo trên con lắc. Thạch anh hợp nhất sau này được sử dụng có CTE thậm chí thấp hơn. Những vật liệu này là sự lựa chọn cho các con lắc có độ chính xác cao hiện đại.
Áp suất khí quyển
Ảnh hưởng của không khí xung quanh lên con lắc chuyển động rất phức tạp và đòi hỏi các phép tính cơ học chất lỏng với độ chính xác cao, nhưng đối với hầu hết các mục đích, ảnh hưởng của nó lên chu kỳ có thể được quy kết thành ba hiệu ứng:
- Lực đẩy Archimedes, trọng lượng hiệu dụng của quả nặng bởi độ nổi của phần thể tích không khí mà nó thay thế, trong khi khối lượng quán tính vẫn giữ nguyên, làm giảm gia tốc của con lắc trong quá trình dao động và làm tăng chu kỳ. Điều này phụ thuộc vào áp suất không khí và mật độ của con lắc, nhưng không phụ thuộc vào hình dạng của con lắc.
- Con lắc mang một lượng không khí với nó khi nó lắc, và khối lượng của không khí này làm tăng quán tính của con lắc, làm giảm gia tốc và tăng chu kỳ. Điều này phụ thuộc vào cả mật độ và hình dạng của con lắc.
- Sức cản không khí nhớt làm chậm vận tốc của con lắc. Điều này có ảnh hưởng không đáng kể đến chu kỳ, nhưng gây tiêu tán năng lượng, làm giảm biên độ. Điều này làm hụt hệ số Q của con lắc, đòi hỏi lực truyền động lớn hơn từ cơ chế đồng hồ để giữ cho nó tiếp tục chuyển động, điều này gây ra sự nhiễu loạn gia tăng cho chu kỳ.
Tăng áp suất khí quyển làm tăng chu kỳ của con lắc một chút do hai hiệu ứng đầu tiên, khoảng 0,11 giây mỗi ngày trên mỗi kilopascal (0,37 giây mỗi ngày trên một inch thủy ngân hoặc 0,015 giây mỗi ngày trên torr). và đến năm 1900, đồng hồ có độ chính xác cao nhất được gắn trong các bể đẳng áp để loại bỏ những thay đổi trong áp suất không khí.