✨Cổ tử cung
Cổ tử cung (tiếng Latin: cervix uteri) là phần dưới của tử cung trong hệ sinh dục nữ. Cổ tử cung thường dài từ 2 đến 3 cm (~ 1 inch) và hình dạng gần như hình trụ, có sự thay đổi trong thai kỳ. Ống cổ tử cung nằm ở trung tâm và hẹp, chạy dọc theo toàn bộ chiều dài của tử cung, kết nối khoang tử cung với lòng của âm đạo. Lỗ mở vào tử cung gọi là lỗ trong ống cổ tử cung, và lỗ mở vào âm đạo gọi là lỗ ngoài ống cổ tử cung. Phần dưới của cổ tử cung gọi là phần âm đạo của cổ tử cung (hay lỗ ngoài ống cổ tử cung), phình ra ở phía trên của âm đạo. Các ghi chép về chi tiết giải phẫu này có từ thời Hippocrates hơn 2000 năm trước.
Ống cổ tử cung là một đoạn mà tinh trùng phải di chuyển để thụ tinh cho một tế bào trứng sau khi quan hệ tình dục. Một số phương pháp tránh thai như đặt mũ cổ tử cung và màng ngăn âm đạo giúp ngăn chặn sự di chuyển của tinh trùng qua ống cổ tử cung. Chất nhầy cổ tử cung được sử dụng trong một số phương pháp ngừa thai dựa trên nhận thức sinh sản (như mô hình Creighton và phương pháp Billings) do những thay đổi của nó trong suốt chu kỳ kinh nguyệt. Trong quá trình sinh con qua âm đạo, cổ tử cung bị giãn ra và bị xóa để thai nhi lọt ra ngoài. Hộ sinh và bác sĩ xem xét mức độ giãn và xóa cổ tử cung để ra quyết định.
Ống cổ tử cung được lót bằng một lớp tế bào biểu mô trụ, trong khi đó, lỗ ngoài ống cổ tử cung được bao phủ bởi nhiều lớp tế bào biểu mô trụ tầng. Hai loại biểu mô gặp nhau tại vùng tiếp giáp lát trụ. Nhiễm virus papilloma ở người (HPV) gây ra những thay đổi trong biểu mô, có thể dẫn đến ung thư cổ tử cung. Xét nghiệm phết tế bào cổ tử cung thường phát hiện ung thư cổ tử cung và dấu hiệu tiền ung thư, cho phép điều trị sớm và tăng khả năng thành công. Để tránh HPV cần tránh quan hệ tình dục không an toàn, cần sử dụng bao cao su và tiêm vắc-xin HPV. Vắc-xin HPV phát triển vào đầu thế kỷ 21 đã làm giảm nguy cơ ung thư cổ tử cung bằng cách ngăn ngừa nhiễm trùng từ các chủng virus gây ung thư.
Cấu trúc giải phẫu
thế=Diagram of the uterus and part of the vagina.|phải|nhỏ| Sơ đồ của [[tử cung và một phần của âm đạo. Cổ tử cung là phần dưới của tử cung, lỗ trong ống cổ tử cung và lỗ ngoài ống cổ tử cung. Ống cổ tử cung kết nối bên trong âm đạo và khoang của thân tử cung.]] Cổ tử cung là một phần của hệ sinh dục nữ, dài khoảng . Lỗ ngoài và lỗ trong ống cổ tử cung hẹp hơn phần thân cổ tử cung. Phần dưới của cổ tử cung nhô ra qua thành trước của âm đạo, gọi là phần âm đạo của cổ tử cung (hoặc phần ngoài cổ tử cung), phần trên của cổ tử cung gọi là phần trên âm đạo của cổ tử cung (hoặc phần trong cổ tử cung). niêm mạc bao phủ phần bên ngoài của cổ tử cung, chỗ nhô vào âm đạo gọi là cổ ngoài cổ tử cung. Cổ tử cung có lớp niêm mạc lót bên trong, có lớp cơ trơn dày, phía sau phần trên âm đạo cổ tử cung có lớp thanh mạc cấu tạo bởi mô liên kết và phúc mạc bên trên.
Ống cổ tử cung rất khác nhau về chiều dài và chiều rộng giữa các phụ nữ hoặc trong suốt cuộc đời của phụ nữ, Ống cổ tử cung phình ra giữa và hẹp ở hai đầu. Thành trước và thành sau của ống đều có một nếp gấp dọc, từ đó các đường gờ chạy chéo lên trên và ra ngoài. Những nếp gấp này gọi là nếp lá cọ, vì nhìn giống lá cây cọ. Các gờ trước và gờ sau sắp xếp để thông với nhau, có thể đóng ống cổ tử cung lại. Các gờ này thường xuất hiện sau khi mang thai. sau đó máu đi vào tĩnh mạch tử cung. Các dây thần kinh tạng chậu hông (hay thần kinh cương), có nguyên ủy S2 – S3, truyền cảm giác đau từ cổ tử cung đến não. Bạch huyết từ cổ tử cung trước và cổ tử cung ngoài đổ vào các hạch bạch huyết chạy dọc theo động mạch tử cung, đi dọc theo dây chằng ngang cổ tử cung ở dưới dây chằng rộng đến các hạch chậu ngoài và cuối cùng là đến các hạch cạnh động mạch chủ. Bạch huyết cổ tử cung sau và cổ tử cung ngoài chảy dọc theo các động mạch tử cung đến các hạch chậu trong và cuối cùng là đến các hạch cạnh động mạch chủ, còn bạch huyết phần sau của cổ tử cung chạy vào đến các hạch bạch huyết bịt và hạch bạch huyết trước xương cùng. Những thay đổi này cũng đi kèm với những thay đổi trong chất nhầy cổ tử cung.
Phát triển
Cổ tử cung là một phần của hệ sinh dục nữ, có nguồn gốc từ hai ống cạnh trung thận (còn gọi là ống Müller), phát triển vào khoảng tuần thứ sáu của thời kỳ phôi thai. Trong quá trình phát triển, các phần bên ngoài của hai ống hợp nhất, tạo thành một ống niệu-sinh dục, sau này phát triển thành âm đạo, cổ tử cung và tử cung. Cổ tử cung phát triển với tốc độ chậm hơn so với thân tử cung, do đó kích thước tương đối của cổ tử cung theo thời gian giảm dần. Thời kỳ bào thai, cổ tử cung lớn hơn nhiều so với thân tử cung. Thời kỳ nhũ nhi, cổ tử cung rộng gấp đôi thân tử cung và đến sau dậy thì, cổ tử cung nhỏ hơn thân tử cung. Tuy nhiên, các nghiên cứu mới cho thấy rằng tất cả cổ tử cung cũng như một phần lớn của biểu mô âm đạo đều có nguồn gốc từ mô ống Müller và sự khác biệt về kiểu hình có thể là do nhiều nguyên nhân khác.
Mô học
nhỏ|Lỗ ngoài ống cổ tử cung của một phụ nữ chưa sinh nở bị viêm lộ tuyến cổ tử cung, có thể nhìn thấy niêm mạc đỏ sẫm bao quanh cổ tử cung. Quan sát bằng mỏ vịt Niêm mạc lót trong cổ tử cung dày khoảng và được lót bằng một lớp tế bào niêm mạc hình trụ. Niêm mạc chứa nhiều tuyến nhầy hình ống, có chức năng bài tiết chất nhầy vào lòng mạch. Phía dưới biểu mô là lớp collagen cứng cáp. Niêm mạc của phần trong cổ tử cung không bong ra trong thời kỳ kinh nguyệt. Cổ tử cung có nhiều mô xơ, collagen và elastin hơn phần còn lại của tử cung.
Sau mãn kinh, các cấu trúc tử cung không hoạt động và vùng tiếp giáp lát trụ di chuyển vào ống cổ tử cung. và một số hình thức thụ tinh nhân tạo, tinh trùng sẽ đi theo ống cổ tử cung và âm đạo. Một số tinh trùng vẫn còn sót lại ở cổ tử cung, các nếp ở lỗ trong ống cổ tử cung giống như một bể chứa, giải phóng tinh trùng trong vài giờ và tối đa hóa cơ hội thụ tinh. Một giả thuyết cho rằng cổ tử cung và tử cung co thắt trong khi đạt cực khoái sẽ hút tinh dịch vào tử cung.
Một số phương pháp nhận biết khả năng sinh sản (chẳng hạn như mô hình Creighton và phương pháp Billings) ước tính thời kỳ sinh sản và vô sinh của phụ nữ bằng cách quan sát những thay đổi sinh lý trong cơ thể. Trong số những thay đổi này, có một số thay đổi liên quan đến chất lượng của chất nhầy cổ tử cung: cảm giác mà nó gây ra ở âm hộ, độ xốp của chất nhày (Spinnbarkeit), độ trong suốt và Fern test dương tính (hình ảnh dương xỉ trên tiêu bản chất nhày âm đạo). Thành phần phụ thuộc vào nồng độ hormone estrogen và progesteron. Vào khoảng thời gian rụng trứng (thời kỳ có nồng độ estrogen cao) chất nhầy loãng giống huyết thanh để cho tinh trùng đi vào tử cung, và có tính kiềm hơn để tinh trùng dễ thích nghi.
Vào những thời điểm khác trong chu kỳ kinh nguyệt, chất nhầy đặc và có tính acid hơn do tác động của progesteron. Phụ nữ uống thuốc tránh thai cũng có chất nhầy đặc do tác dụng của progesterone.
Nút nhầy cổ tử cung hình thành bên trong ống cổ tử cung khi mang thai, tạo ra một lớp bảo vệ tử cung chống lại sự xâm nhập của các tác nhân gây bệnh và chống lại sự rò rỉ của dịch tử cung. Nút nhầy được biết là có đặc tính kháng khuẩn. Nút này giải phóng khi cổ tử cung giãn ra, trong giai đoạn đầu tiên của quá trình chuyển dạ hoặc một thời gian ngắn trước đó, nhìn thấy dưới dạng dịch nhầy nhuốm máu.
Sinh sản
trái|nhỏ| Khi đầu của thai nhi thúc vào cổ tử cung, một tín hiệu (2) sẽ được gửi đến não, sau đó gửi [[tuyến yên để giải phóng oxytocin (4). Oxytocin được vận chuyển trong máu đến tử cung, gây ra các cơn co thắt để sinh con.]] Cổ tử cung đóng một vai trò quan trọng trong quá trình sinh con. Khi bào thai đi xuống tử cung để chuẩn bị chào đời, phần ngôi (phần của thai nhi trình diện trước eo trên, phần nhô ra đầu tiên, thường là ngôi đầu) được cổ tử cung hỗ trợ. Khi quá trình chuyển dạ tiến triển, cổ tử cung trở nên mềm hơn và ngắn hơn, bắt đầu giãn ra và hướng về phía trước của cơ thể. Sự hỗ trợ của cổ tử cung cung cấp để đầu của thai nhi giảm dần, nhường chỗ khi lực co bóp của tử cung. Trong quá trình sinh nở, cổ tử cung phải giãn ra, có đường kính trên đầu của thai nhi lọt qua được khi đi xuống từ tử cung đến âm đạo. Cổ tử cung ngày càng rộng và ngắn hơn, dẫn đến một hiện tượng gọi là xóa cổ tử cung. Nói chung, giai đoạn đầu tiên của quá trình chuyển bắt đầu khi cổ tử cung giãn ra nhiều hơn , khi đó các cơn co thắt tử cung trở nên mạnh mẽ và đều đặn. Giai đoạn thứ hai của quá trình chuyển dạ bắt đầu khi cổ tử cung giãn ra , được coi là sự giãn nở tối đa, Trong một năm, 12% phụ nữ sử dụng màng ngăn sẽ mang thai ngoài ý muốn, và khi sử dụng tối ưu, tỷ lệ này giảm xuống còn 6%. Tỷ lệ hiệu quả của mũ cổ tử cung thì ít hơn: 18% phụ nữ mang thai ngoài ý muốn và 10–13% khi sử dụng tối ưu. Hầu hết các loại thuốc viên chứa progestogen đều có hiệu quả như một biện pháp tránh thai, vì thuốc làm đặc chất nhầy cổ tử cung, khiến tinh trùng khó di chuyển dọc theo ống cổ tử cung. Thuốc cũng có thể ngăn cản sự rụng trứng.
Ý nghĩa lâm sàng
Bệnh ung thư
Năm 2008, ung thư cổ tử cung là bệnh ung thư phổ biến thứ ba ở phụ nữ trên toàn thế giới, tỷ lệ thay đổi theo vùng địa lý từ <1 đến hơn 50 trường hợp trên 100.000 phụ nữ. 12 năm sau đó, năm 2020, ung thư cổ tử cung là bệnh ung thư phổ biến thứ tư ở phụ nữ trên toàn cầu, ước tính có khoảng 604 000 ca mắc mới và 342 000 ca tử vong. Khoảng 90% số ca mắc mới và tử vong trên toàn thế giới vào năm 2020 xảy ra ở các nước có thu nhập thấp và trung bình. Tại Việt Nam, ung thư cổ tử cung xếp thứ 12 trong số ca mắc mới năm 2020, với 4132 ca, chiếm 2,3% số ca ung thư mắc mới; và xếp thứ 12 trong số ca tử vong năm 2020, với 2223 ca, chiếm 1,8% số ca tử vong do ung thư.
Đây là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do ung thư ở các nước nghèo, nơi chẩn đoán bệnh muộn khiến tiên lượng bệnh kém. Việc áp dụng sàng lọc định kỳ làm giảm trường hợp mắc và tử vong do ung thư cổ tử cung, nhưng phần lớn được thực hiện các nước phát triển. Hầu hết các nước đang phát triển đều không sàng lọc hoặc công tác sàng lọc tỏ ra nhiều hạn chế. 85% gánh nặng toàn cầu xảy ra ở các nước đang phát triển.
Ung thư cổ tử cung gần như luôn liên quan đến nhiễm virus u nhú ở người (human papillomavirus, HPV). HPV là virus có nhiều chủng, một số chủng có khuynh hướng gây ra những thay đổi tiền ung thư trong biểu mô cổ tử cung, đặc biệt là ở vùng chuyển tiếp, là khu vực phổ biến nhất để xuất hiện ung thư cổ tử cung. Vắc-xin HPV (Gardasil và Cervarix) làm giảm tỷ lệ mắc ung thư cổ tử cung.
Những thay đổi tiền ung thư ở cổ tử cung có thể phát hiện bằng cách sàng lọc cổ tử cung, sử dụng các phương pháp phết tế bào cổ tử cung, các tế bào biểu mô cạo từ bề mặt cổ tử cung được kiểm tra dưới kính hiển vi. Kỹ thuật Khoét chóp cổ tử cung bằng vòng điện (LEEP) sử dụng một vòng platin nung nóng để loại bỏ một mảng mô cổ tử cung. Kỹ thuật này do Aurel Babes phát triển vào năm 1927. Ở một số khu vực của thế giới phát triển bao gồm cả Vương quốc Anh, Phết tế bào cổ tử cung được thay thế bằng kỹ thuật tế bào học trong chất lỏng (E-prep PAP, còn có tên xét nghiệm Pap nhúng dịch, tiếng Anh: liquid-based cytology, viết tắt là LBC).
Một giải pháp thay thế rẻ, hiệu quả và thiết thực ở các nước nghèo hơn là xét nghiệm trực quan bằng acid acetic (VIA).
Nếu kết quả của loạn sản thì cần phải làm thêm xét nghiệm, chẳng hạn như bằng cách lấy sinh thiết hình nón, cũng có thể loại bỏ tổn thương ung thư. Hầu hết các trường hợp ung thư cổ tử cung được phát hiện theo cách này mà không gây ra bất kỳ triệu chứng nào. Các triệu chứng gồm chảy máu âm đạo, tiết dịch hoặc gây khó chịu.
Viêm
Viêm lộ tuyến cổ tử cung được gọi chung là viêm cổ tử cung. Viêm có thể ở lỗ trong hoặc lỗ ngoài ống cổ tử cung. Nếu viêm ở lỗ trong ống cổ tử cung, thì tình trạng viêm này có liên quan đến tiết dịch nhày âm đạo và các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục như chlamydia và lậu. Các nguyên nhân khác: sự phát triển quá mức của hệ vi sinh vật hội sinh tại âm đạo.
Bất thường giải phẫu
Hẹp cổ tử cung thường liên quan đến chấn thương do cắt bỏ mô để điều tra hoặc điều trị ung thư, hoặc do chính ung thư cổ tử cung làm hẹp. Thuốc Diethylstilbestrol được sử dụng từ năm 1938 đến năm 1971 để ngăn ngừa chuyển dạ sinh non và sẩy thai, cũng có liên quan chặt chẽ đến sự phát triển của chứng hẹp cổ tử cung và các bất thường khác ở con gái của những phụ nữ dùng thuốc. Các bất thường khác: hẹp âm đạo, trong đó biểu mô lát của lỗ ngoài ống cổ tử cung trở thành biểu mô trụ; các bệnh ung thư như ung thư biểu mô tuyến tế bào sáng; bất thường gờ cổ tử cung; và sự phát triển của cổ tử cung có hình giống hoa mào gà đỏ. Khoảng một phần ba phụ nữ được sinh ra từ những bà mẹ điều trị bằng diethylstilbestrol (tức là những người phụ nữ này tiếp xúc với thuốc trong tử cung của mẹ) phát triển cổ tử cung dạng hoa mào gà.
Các nếp hoặc gờ của mô đệm cổ tử cung (mô sợi) và biểu mô tạo thành cổ tử cung dạng hoa mào gà. Tương tự đối với các polyp dạng hoa mào gà ở biểu mô lót cổ tử cung. Bản thân đây được coi là một bất thường lành tính; Tuy nhiên, sự hiện diện của nó thường là dấu hiệu của phơi nhiễm diethylstilbestrol, và vì vậy những phụ nữ gặp phải những bất thường này nên nhận thức được nguy cơ gia tăng các bệnh lý liên quan của họ.
Dày cổ tử cung là một tình trạng bẩm sinh hiếm gặp, trong đó cổ tử cung không phát triển hoàn toàn, thường liên quan đến việc âm đạo phát triển không tương xứng. Các bất thường cổ tử cung bẩm sinh khác tồn tại, thường kết hợp với các bất thường của âm đạo và tử cung. Có thể có 2 cổ tử cung trong trường hợp tử cung hai sừng và tử cung kép.
Polyp cổ tử cung là sự phát triển quá mức lành tính của mô nội mạc cổ tử cung, nếu xuất hiện có thể gây chảy máu hoặc có thể có một khối phát triển quá mức lành tính trong ống cổ tử cung. Hầu hết loài động vật có vú Eutheria có một cổ tử cung duy nhất và một hoặc hai tử cung. Bộ thỏ, động vật gặm nhấm, lợn đất và Bộ Đa man có một tử cung và hai cổ tử cung. Bộ Thỏ và động vật gặm nhấm có chung nhiều đặc điểm hình thái và được nhóm lại với nhau trong nhánh Glires. Động vật ăn kiến thuộc họ Myrmecophagidae khác thường ở chỗ chúng không có cổ tử cung rõ ràng. Ở lợn nhà, cổ tử cung chứa 5 miếng đệm đan xen giữ dương vật hình xoắn ốc của lợn đực trong quá trình giao cấu.
Từ nguyên và cách phát âm
Từ cervix () trong tiếng tiếng Anh có nguồn gốc từ tiếng Latin nghĩa là "cổ". Ý nghĩa của cervix không chỉ mô tả bộ phận cổ [của cơ thể sinh vật] mà còn để mô tả đoạn thắt hẹp của sự vật.
Cervix của tiếng Latin xuất phát từ Tiếng Ấn-Âu nguyên thủy ker-, đề cập đến "cấu trúc của một công trình".
Cổ tử cung được ghi lại trong y văn giải phẫu học từ thời Hippocrates; ung thư cổ tử cung lần đầu tiên được Hippocrates và Aretaeus mô tả cách đây hơn 2000 năm. Cổ tử cung định nghĩa lại một cách chính xác từ năm 1702.